BỎ CÁC NGƯỜI DO THÁI BẤT TRUNG VÀ KÊU GỌI LƯƠNG DÂN
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
Lc 13, 22-30
1. So sánh với các phúc âm nhất lãm, đoạn văn Lc hôm nay cũng có trong Mt, nhưng bị tách thành nhiều đoạn rời rạc, trong nhiều bối cảnh khác nhau. Cửa hẹp (Lc 13,24) song song với Mt 7,13-14. Cửa đóng (Lc 13,25) chấm dứt dụ ngôn về các trinh nữ khôn ngoan và khờ dại trong Mt 25,10-12. Câu trả lời của những người bị loại ra ngoài (Lc 13,26-27) tương ứng với Mt 7,22-23. Về bữa tiệc hội tụ các người được chọn từ bốn phương (Lc 13,28-29), Mt để ở cuối trình thuật chữa lành tên đày tớ của viên sĩ quan (Mt 8,11-12), là người ngoại giáo có lòng tin sâu xa mà dân Israel không có.
Từ đó ta thấy: đoạn văn hôm nay thật hỗn hợp và gồm tóm nhiều mảnh vụn rời rạc. Tuy nhiên đây không chỉ là một gom góp đơn giản, nhưng là một toàn thể, một “nhóm” mà thực thể không thể không định nghĩa được bằng việc tổng hợp các phần tử của nó. Đây là một dụ ngôn mới, dụ ngôn cửa đóng, mà ý nghĩa tổng quát đồng nghĩa với các lời nói (logia) được gom góp lại. Ta có thể gọi việc gom góp này là chủ đề về các yêu sách cần hoàn tất để được cứu rỗi.
2. Thực vậy, dụ ngôn bắt đầu từ việc một thính giả hỏi về con số các người được chọn. Trước tiên Lc nhắc lại cuộc hành trình lên Giêrusalem. “Trên đường tiến lên Giêrusalem, Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa đi vừa giảng dạy”. Thỉnh thoảng ta lại thấy câu chỉ dẫn đó (9,51; 17,11; 19,18). Đây chính là cái mốc để Lc thu góp và tổng hợp cách giả tạo một loạt chỉ dẫn không có khung cảnh và văn mạch rõ rệt.
Có người đến hỏi: “Lạy thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?”. Vấn nạn này cơ hội cụ thể để Chúa Giêsu giảng dạy (trực tiếp đối với câu 24, gián tiếp đối với các câu sau), vấn nạn cũng là nỗi thắc mắc thường xuyên của các người đồng thời với Chúa Giêsu. Phúc âm đã hơn một lần ghi lại các vấn nạn về ơn cứu rỗi và phương thế để được cứu độ: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?” (Mt 19,16 và song song), “Khi nào Nước Thiên Chúa đến” (Lc 17,20. Đây là học thuyết thịnh hành của các người biệt phái thời Chúa Giêsu: “Toàn dân Israel sẽ được dự phần trong thế giới mai hậu” (Sanh.10,1). Có người bi quan hơn: “thế giới mai hậu chỉ an ủi một số ít còn đa số phải đau khổ cùng cực” (1V Esdr.5,47). Các người Esséniens thuộc cộng đoàn Qumrân cho rằng chỉ các thành viên của họ mới được cứu rỗi. Ai có lý?. Chúa Giêsu không muốn giải quyết vấn nạn. Tại sao con người lại thắc mắc về số người được cứu rỗi? Phải chăng vì muốn được an tâm nhờ biết con số đó? Nếu toàn thể Israel được cứu rỗi, họ mới có thể sống bình thản. Nếu chỉ số ít được chọn, thôi thì cần gì cố gắng? Chúa Giêsu lợi dụng mối bận tâm này và lối sư phạm đặc biệt. Ngài nhân cách hóa vấn nạn, để có cái nhìn khách quan hơn. Các nhà thần học có thể lý luận suốt đời về con số người được chọn: còn Chúa Giêsu không muốn thế, Ngài mời gọi mọi người chất vấn, cũng như mời gọi tất cả chúng ta, sôi nổi phấn đấu để được đăng ký vào số người được cứu rỗi.
Thật hữu ích khi có thể nghiên cứu cách thức Đức Kitô đương đầu với các vấn nạn thính giả, cũng như chúng ta đặt ra. Hình như Chúa Giêsu rất ít trả lời câu người ta thường hỏi; Ngài thường trả lời “bên lề”. Lối trả lời “bắt râu ông nọ cắm cằm bà kia” là lối Chúa Giêsu thường dùng, nhất là trong phúc âm thứ tư. Nhưng không phải Đức Kitô đổi câu trả lời cho bằng đổi câu hỏi và đưa chúng ta đến vấn nạn đích thực ẩn dấu dưới một câu trả hỏi nào đó đã được đặt ra. Đức Kitô phá vỡ chân lý mà chúng ta muốn giới hạn (số người được chọn…), muốn cầm chắc trong tay, muốn chiếm hữu như một đối tượng, bên ngoài con người chúng ta. Ngài biến vấn nạn của chúng ta thành sống động; và khi phân tích vấn nạn, Ngài bật mí cái ẩn dấu và đưa chúng ta về lại cuộc sống hiện sinh của chúng ta.
3. “Hãy cố gắng đi vào bằng cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi, nhiều kẻ tìm cách vào, nhưng không thể vào được”. Như thế Chúa Giêsu khuyên bảo thính giả Ngài cố gắng phấn đấu để đi vào bằng cửa hẹp, là hình ảnh Ngài thường dùng cùng lúc với hình ảnh lỗ kim (Mt 19,24; Mc 10,25; Lc 18,25). Cách tổng quát Lc nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc làm, chúng ta sẽ bàn lại sau này. Dù sao, ở đây câu nói có nghĩa cánh chung, còn ở Mt câu nói có nghĩa luân lý nhiều hơn, do các yêu cầu hiện thực của đời Kitô hữu đòi hỏi. “Các ngươi hãy vào qua của hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy. Cửa và đường đưa đến sự sống thì hẹp và ít kẻ tìm thấy” (Mt 7,13-14). Phải cố gắng vào qua cửa hẹp đúng lúc, vì cửa sắp đóng. Giọng nói có vẻ đe dọa, tiên báo câu chủ nhà nghiêm khắc trả lời: “Ta không biết các ngươi từ đâu đến”.
4. Khi người đồng minh không muốn tiếp xúc thân mật hay đòi hỏi nhiều yêu sách, người ta thường nại đến mối bang giao tốt đẹp đã có từ trước đến nay. Ở đây người đồng minh là Thiên Chúa. Những người đối thoại có Thiên Chúa, trong Đức Kitô, như là người đồng bàn, đòng tâm; họ là thính giả trực tiếp nghe Ngài giảng dạy. “Chúng tôi đã ăn uống với Ngài, và Ngài đã giảng dạy giữa quảng trường chúng tôi”. Chúng tôi thuộc nhóm người ưu đãi, được Ngài tâm sự như bạn chí tình. Đó không phải là điều sai lỗi. Điều sai lỗi không phải là rước Thiên Chúa vào nhà mình, đã ân cần tiếp đón phục dịch Ngài, đã chuyên cần nghe Ngài giảng dạy. Điều sai lỗi ở chỗ là muốn biến sự kiện mình là người đồng thời với Chúa Giêsu trong tình trạng đắc thủ, thành quyền quyền đòi hỏi được thụ hưởng, thi ân. Nhưng vấn đề là phải qua cửa hẹp, được đăng ký trong số người được chọn, còn việc theo Đức Kitô trên vạn nẻo ưởng Palestine không quan trọng: chỉ có hành động mới đáng kể. Các mối liên hệ của tôi, kể cả mối liên hệ đối với Thiên Chúa, kể cả việc tôi chăm chú nghe Ngài giảng dạy, không thể mở cửa cho tôi vào. Nếu tôi sống bất công, tôi không thể thấy ứng nghiệm câu này: “ai nghe và thi hành lời Thiên Chúa thì có phúc hơn” (Lc 11,28).
Chỉ mới xét trên bình diện biên soạn của Lc, chúng ta đã thấy ông muốn nhấn mạnh đến việc thực hiện hóa (actualisation). Trong lúc ở Mt, Chúa Giêsu chỉ nói đến các người bị luận phạt ở ngôi thứ ba, ở Lc, Chúa Giêsu trực tiếp nói với họ: “Bấy giờ các ngươi mới nói rằng…”; ở Mt, những lời phản kháng là do các người có địa vị quan trọng trong cộng đoàn Kitô hữu nói: “chúng tôi đã nhân danh Ngài mà nói tiên tri…”, ở Lc trái lại bài giáo huấn trực tiếp nhắm đến đám thính giả của Đức Kitô. Lối trình bày của Lc về sứ vụ Chúa Giêsu do đó sát lịch sử hơn và hiện thực hơn: như thế các lời đó đang nhắm đến chúng ta. Khi giảng, nên lưu ý điểm này.
5. Lời tuyên bố gạt bỏ được lặp lại hai lần. Lc còn tả thêm số phận của các kẻ bị gạt bỏ: họ sẽ bị các thực khách từ bốn phương đến thay thế. Nhưng trước tiên kẻ bị luận phạt mục kích tận mắt mối phúc thật của người công chính và chính việc chứng kiến cảnh tượng đó đã là hình phạt đối với họ. “Khi đến ngày thấy kẻ xưa kia họ coi thường được nâng lên và được vinh hiển…, họ sẽ vô cùng mất mặt; họ sẽ chứng kiến cảnh tượng đó trước, rồi mới chịu hành xử !” (Apocalypse syriaque de Baruch, bản dịch của P.Bogaert, Sources chrétiennes 144,1969,p.498).
Phúc âm không đưa ra cảnh tượng vinh quang của các người được chọn và nhục hình của kẻ bị luận phạt. Có lẽ đây là điểm giúp chúng ta thanh luyện quan niệm chúng ta về hỏa ngục và các huyền thoại của nó. Hình như Newman đã có trực giác khi viết: “chúng ta tưởng trời sẽ là nơi hạnh phúc cho chúng ta khi chúng ta được lên đó; nhưng nếu chúng ta biết xét đoán gì xảy ra ở địa cầu này – một người tàn bạo dù được đưa lên trời, cũng không biết y đang ở trên trời. Trái lại tối thiết nghĩ, chính sự kiện ở trên trời với gánh nặng tội lỗi của y, đối với y đã là một nhục hình và đã đốt lên trong y ngọn lửa thiêu đốt nóng bừng của hỏa ngục” (J.H.Newman, douze sermons sur le Christ, bản dịch P.Leyris, 1943; trang 184-185).
6. So sánh với Mt, bản văn Lc với hai chi tiết được thêm vào (c. 28: “Các tiên tri”; c.29: “từ bắc chí nam”) khuếch đại lời mô tả các người được phép tham dự bữa tiệc Nước Trời. Rõ ràng ở đây Lc muốn xác định cộng đoàn các người được chọn. Một dư âm của sách Didachè: “Hãy hội nhập giáo hội của ngươi từ khắp năm châu bốn bể, vào trong nước Trời”.
Nhưng điều chúng ta ghi nhận trên bình diện thể văn, lại là dấu chỉ việc khuếch đại các viễn ảnh đặc biệt hơn, trong Lc, phép đối ngẫu giữa người được chọn và các kẻ bị gạt bỏ không còn nói lên việc đối nghịch giữa số đông lương dân được nhận vào bữa tiệc cánh chung cùng các tổ phụ, với “các con cái nước trời”, công dân nước Israel: đó là phép đối ngẫu Mt 8,11-12 khai triển. Theo Lc, người bị loại ra khỏi nước trời không phải là vì họ Do thái, con cái nước trời, nhưng vì họ là người bất lương, sống bất chính (Lc 13,27). Khi nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc làm, Lc đã không xét đến việc từ bỏ trên bình diện quốc tịch, quốc tính nhưng đã mở rộng cửa cho tất cả người Do thái hay lương dân biết phấn đấu để vào cửa hẹp. Mối bận tâm luân lý của Lc khi soạn thảo bản văn này là đáng đổ việc đối ngẫu chủng tộc đối nghịch Israel với lương dân “Thiên Chúa không tây vị ai, nhưng ở bất cứ dân tộc nào, hễ ai kính sợ Ngài và thực thi công bình đều được Ngài vui lòng chiếu cố” (Cvsđ 10,34-35).
7. “Có người sau hết sẽ nên trước hết và người trước hết sẽ nên sau hết”. Lời này không được áp dụng cho tất cả mọi cá nhân, như thể ai được Thiên Chúa gọi trước, đều phải ngồi chỗ rốt hết trong nước trời hay phải ngồi ngoài cửa phòng tiệc. Các tổ phụ và tiên tri đã đi ngược lại lối chú giải đó: được Thiên Chúa tuyển chọn trước, các Ngài sẽ được tưởng thưởng và ngồi ghế danh dự. Chúa Giêsu so sánh toàn thể dân Do thái, từ khi Ngài xuất hiện, với toàn thể lương dân. Khi đề cập đến 2 nhóm đó, Ngài công bố có nhiều lương dân sẽ được cứu rỗi trước người Do thái và ngay cả cộng đoàn toàn thể lương dân sẽ được vào Nước Thiên Chúa trước cộng đoàn Israel, như thánh Phaolô sau này sẽ nói (Rm 11,25-26). Qua các lời tiên tri đó (sách Cvsđ sẽ cho thấy các sự ứng nghiệm lời tiên tri đó trong giáo hội sơ khai: Cvsđ 13,46-48; 28,25-28), Chúa Giêsu nghiêm nghị tiên báo cho kẻ chất vấn Ngài: các ngươi tưởng mình chắc chắn sẽ được dự tiệc thiên quốc, vì mình là người Do thái; hãy đề phòng để khỏi nghe chủ nhà, sau này sẽ trở nên quan tòa xét xử các ngươi, nói với các ngươi rằng “Ta không biết các ngươi”.
Với ý niệm “từ đông sang tây, từ bắc chí nam”, Lc theo tư tưởng của Is khi nói đến hình ảnh các dân tuôn về Gierusalem để quan chiêm vinh quang của Giave, ngang hàng với con cái Israel được các dân ngoại dẫn về thành thánh. Đây là toàn bộ chủ đề của Isaia-đệ-nhị mà đoạn văn hôm nay chỉ trích dẫn các câu cuối cùng.
KẾT LUẬN
Điều quan trọng, chính là niềm ao ước sống thao tiếng gọi và giáo huấn của Chúa Giêsu, là chấp nhận lời đề nghị Thiên Chúa gởi qua trung gian của Ngài. Nếu không dùng hành động mình để thể hiện điều sứ điệp Ngài công bố, thì việc làm môn đệ Ngài hay cùng chung dân tộc với Ngài chẳng ăn thua gì. Không phải ai nói: “Lạy Chúa, lạy Chúa” mà sẽ vào được nước trời, nhưng là người thực hiện ý Cha Ta trên trời (Mt 7,21).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúa Giêsu không đến thỏa mãn tính tò mò của chúng ta. Ngài đến dạy cho chúng ta đường hạnh phúc, hạnh phúc trần thế nhất là hạnh phúc trên trời. Vì thế Ngài từ chối trả lời các câu hỏi phụ thuộc, ví dụ như hỏi về số người được chọn, ngày giờ thế mạt, địa vị mỗi người trên trời (x. lời van xin của Giacobe và Gioan trong Mc 10,35-45). Những câu hỏi như thế thật nguy hiểm cho chúng ta. Ví dụ về số người được chọn: nếu Chúa Giêsu cho biết rất nhiều người sẽ được cứu rỗi, chúng ta dễ bị cám dỗ sống buông xuôi vì hầu như chắc mình đã được cứu rỗi. Trái lại, nếu Chúa Giêsu cho biết rất ít người sẽ được cứu rỗi, chúng ta sẽ thất vọng và đâm ra chán nản không muốn sống tốt đời Kitô hữu. Vì thế, nếu từ chối trả lời là vì mưu ích cho chúng ta hơn. Vì không chắc chắn được cứu rỗi, nên chúng ta sẽ cố gắng xử dụng tốt tự do chúng ta và cố gắng làm mọi sự hết sức mình để một ngày kia có thể qua cửa hẹp mà vào Nước Trời.
2. Thời Chúa Giêsu, người ta tưởng rằng chỉ cần làm người Do thái là đủ để được cứu rỗi. Một số tiến sị luật còn dạy: “Mọi người Do thái sẽ được cứu thoát”. Chúa Giêsu loại bỏ quan niệm đó: không phải mọi người Do thái đều được cứu rỗi, cũng không phải mọi thính giả Chúa Giêsu, mọi người đồng thời với Chúa Giêsu được biệt đãi xem thấy sờ chạm đến Ngôi lời Thiên Chúa, ăn uống với Ngài nghe Ngài giảng dạy, sẽ được cứu rỗi. Không có dân tộc, quốc tịch hay tôn giáo nào tự quyền hưởng ơn cứu rỗi. Việc duy nhất quyết định số phận đời của một cá nhân là lòng trung thành thực hiện giáo huấn của Đức Kitô (giáo huấn mà họ biết được cách rõ ràng và hoàn toàn do giáo hội dạy hay biết cách mù mờ và phiến diện nhờ tôn giáo hay lương tâm của họ). Điều này cũng áp dụng cho chúng ta là người Kitô hữu: nếu chúng ta đã được rửa tội, đã từng nghe phúc âm trong phụng vụ, đã từng ăn Mình Đức Kitô chúng ta thánh lễ – tất cả điều đó không đủ sức cứu rỗi chúng ta, nếu chúng ta không vâng lời Ngài, không thực hiện thánh ý Thiên Chúa mà Ngài đã loan báo, nếu chúng ta không dứt khoát quyết định chọn lựa và sống theo Ngài.
3. Chúa Giêsu so sánh Nước Trời với bữa tiệc sang trọng trong đó hội tụ tất cả mọi người thiện chí từ bốn phương trời. Lúc đó sẽ là ngày hội lớn, ngày vui mừng vì được suốt đời sống với Chúa Cha, Đấng đáng yêu đáng mến nhất, sống với Chúa Giêsu và Thánh Thần, với Mẹ Maria và các thánh. Chúng ta hãy làm mọi sự hết sức mình để khỏi bị loại ra ngoài bữa tiệc, đứng trước cánh cửa đã đóng kín. Nếu trung thành sống thật tốt đời Kitô hữu, cánh cửa nhỏ hẹp của Nước Trời sẽ rộng mở đón nhận chúng ta vào chung hưởng sự vui mừng của Chúa Cha.
Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt