CÁC ĐIỀU KIỆN CỦA LÒNG NHIỆT THÀNH
SUY NIỆM CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
(Lc 6,39-45)
1. “Ngài còn nói với họ một dụ ngôn” (c.39). Chi tiết “kể chuyện” này bắt đầu bài diễn từ tại đồng bằng. “Dụ ngôn” là một tiêu đề chính xác, và những câu tiếp sẽ là 5 dụ ngôn, nhằm mục đích làm thính giả suy nghĩ. Bài diễn từ bằng dụ ngôn tiếp nối các bài diễn từ trước, diễn từ sấm ngôn (6,20-26) và diễn từ khuyến thiện (6,27-38). Trong các đoản văn trước, ta đã thấy rằng các môn đệ phải yêu mến, phải sống cho tha nhân. Trong bài diễn từ trên núi của Mt, sứ mạng các môn đệ được mô tả bằng hình ảnh muối đất, ánh sáng soi chiếu mọi người, thành phố trên núi (Mt 5,13-16). Không chiếu sáng trước mặt mọi người để họ xem thấy các việc lành mà ngợi khen Chúa Cha, người môn đệ đã sống ngược với bản tính và đáng lên án. Trong bài diễn từ tại đồng bằng của Lc, đời sống của người môn đệ cũng được giả thiết là phải có một sức mạnh chiếu sáng tương tự. Nhưng các môn đệ phải được trang bị thế nào để có thể hoàn thành công cuộc tông đồ này? Họ phải là những thày dạy chân lý (6,39-42), ngôn hành của họ phải là một (6,43-45).
2. Có lẽ câu nói về người hướng đạo đui mù (c.39b-40) đã được Chúa Giêsu trước tiên ám chỉ các người biệt phái, nếu xét theo văn mạch chung của các phúc âm trong đó ta thấy Chúa Giêsu nhiều lần chỉ trích sự mù quáng của các lĩnh tụ tôn giáo Israel này (Mt 15,14; 23,16.19.14; Gio 9,41). Họ tự hào là những người hướng đạo dân tộc trong lãnh vực đạo đức. Họ đã học hỏi tỉ mỉ lề luật và đã tìm cách tuân giữ giới răn bên ngoài. Nhưng những người chân thành nhất trong họ vẫn là những người hướng đạo đui mù, bởi vì họ đã khép kín trước mạc khải lớn nhất của Thiên Chúa, họ tự làm cho mình không thể đạt tới lời của Thiên Chúa do Chúa Giêsu loan báo.
Bây giờ câu nói này lại nhằm đến các môn đệ của Chúa Giêsu. Bởi vì mặc dù trước hết các người Biệt phái và tiến sĩ luật, lời kết án này cũng có giá trị đối với người môn đệ, nếu anh ta không sáng suốt. Người môn đệ Chúa Giêsu phải ý thức trách nhiệm mình. Anh không được mù quáng, nhưng khi nào có thể nói anh không mù? Là khi anh đã tiếp nhận cùng một giáo huấn như thày mình. Thày, chính là Chúa Giêsu. Ngài là Thày mà không bao giờ có môn đệ nào hơn được. Ngài là thày tuyệt đối độc đáo. Người môn đệ không hơn thày. Trong trường phái các tiến sĩ luật là như thế; bởi vì thày chuyển thông điều chỉnh ông đã tiếp thu và môn sinh không làm gì khác ngoài việc tiếp thu truyền thống đó. Người môn đệ Chúa Giêsu, đến lượt mình, lại chuyển thông điều đã tiếp thu từ nơi Chúa Giêsu. Làm sao anh có thể lãnh trách nhiệm với người khác nếu anh đã không thực sự được giáo huấn trong lãnh vực lời Chúa Giêsu, nếu chính anh đã không nghiền ngẫm sâu xa điều ấy?
3. Nhưng người môn đệ không chỉ có trách nhiệm huấn giáo cho phù hợp giáo huấn của Chúa Giêsu, như là một môn đệ sáng suốt. Để trung thành với sứ mạng, người môn đệ cũng phải tùy hoàn cảnh mà đưa những kẻ sai lạc hay phạm lỗi về lại chính lộ, phải giúp đỡ họ loại bỏ những lầm lỗi khỏi họ (c.41-42). Những lời nói này của Chúa Giêsu giả thiết rằng, trong đức tin, sự ưu tư về người anh em, người bạn đường là một điều có thật. Mt đã giữ lại một trong các giới luật về đời sống hội thánh tiên liệu một cách sửa bảo huynh đệ như sau: “Nếu anh em con đã phạm tội, hãy đi sửa bảo họ lúc chỉ có con với họ thôi…” (Mt 18,15tt). Như vậy lời giáo huấn của Chúa Giêsu về cọng rác và cái xà không thể nào là một lời kết án việc sửa bảo huynh đệ: đây là một lời cảnh báo về cách thực hành sai lạc về giới luật này. Bởi vì việc sửa bảo huynh đệ có một mối nguy hiểm là ta dễ áp dụng cách bất công. Tính tự ái, sự chua chát và lòng nóng giận làm méo mó chân lý. Hình ảnh cọng rác và cái xà diễn tả rất đúng của một nhiệt tình bất công. Những lỗi nhỏ nhất của tha nhân trở thành to lớn, còn những lỗi to lớn mà ta phạm lại có vẻ nhỏ mọn. Thế nhưng ta chỉ có thể sửa bảo huynh đệ cách hữu ích và đích thật, nếu ta không tự hào về sự công chính của mình và không bị thúc bách bởi tham vọng muốn thống trị.
Nguy hiểm khác, chính là sự giả hình trong việc sửa bảo huynh đệ. Kẻ sửa bảo người khác, tức là muốn chứng tỏ chiến thắng sự xấu trong thế gian. Nhưng nếu anh không chiến thắng sự xấu này được chính mình, thì lúc đó nơi anh có một sự tương phản bi đát giữa bên ngoài và bên trong. Anh chiến đấu chống sự xấu nơi người khác, còn đối với chính bản thân, anh làm gì ? “Trước hết hãy lấy cái xà khỏi mắt anh”. Hãy bắt đầu bằng việc sửa bảo chính anh, chừng đó anh mới có cơ sở để sửa bảo người khác.
Nước Thiên Chúa đã bắt đầu được biểu lộ trong người môn đệ Chúa Giêsu. Điều này giả thiết sự hoán cải và thống hối. Thống hối, nghĩa là nhìn nhận ta là tội nhân, là người có lỗi, là trước hết lên án điều tội lỗi trong chính tim ta. Và từ đó, lòng kiên nhẫn, tha thứ và trao ban, lòng thống hối đưa ta lại gần anh em.
4. Nguy hiểm giả hình chỉ có thể tránh được nếu những hành vi bên ngoài hoàn toàn phù hợp với não trạng bên trong. Cái ta có thể thấy được bên ngoài, tức là hành vi và lời nói, là tốt nếu phát sinh từ một cơ sở bên trong thật sự tốt. Đối với các người Biệt phái và các tiến sĩ luật, một hành vi tốt là khi phù hợp với lề luật: Chúa Giêsu nói các hành vi chỉ tốt khi phát sinh từ một nội tâm tốt. Trái tim, trung tâm tư tưởng, ước muốn, tình cảm là nguồn phát sinh các tư tưởng xấu tốt, lời nói cũng như hành vi, là trung tâm của quyết định trong lãnh vực luân lý. “Chính từ bên trong, từ đáy lòng mà các tư tưởng xấu phát xuất: ngoại tình, trộm cắp, giết người…”. Nhưng khi nào mới gọi là có một con tim tốt?
Những lời nói và hành vi phát xuất từ một người cho ta biết thực chất người ấy thế nào. Chúng biểu lộ tâm hồn người ấy, như trái giúp nhận ra loại và phẩm chất của cây. Một bụi gai không thể sinh trái giống như nho được… Có một liên hệ hữu cơ giữa trái và cây. Cũng thế, có một tương quan chặt chẽ giữa hành vi của một người và thâm tâm người đó. Giả vờ hay đeo mặt nạ là vô ích: người ấy vẫn là một, từ nội tâm mà bộc lộ ra bên ngoài: mọi hành vi của người đó đều phát xuất từ trung tâm hữu vị của nhân tính mình. Người ấy tốt xấu tùy con tim tốt xấu. Dĩ nhiên Chúa Giêsu biết rõ cây tốt đôi mùa có thể sinh trái xấu. Nhưng những vấn nạn như thế không phù hợp với tính chất các lời nói của Chúa Giêsu là không bao giờ đề cập đến sự khả hữu các cấp độ trung gian, mà chỉ nhìn nhận và lưu tâm đến sự đối chọi giữa làm và không làm, giữa tốt và xấu, giữa thiện và ác thôi. Ta biết được thế là nhờ văn loại và và mục đích giáo huấn của các lời nói này. Khi trình bày sự việc trong khía cạnh cực đoan của chúng, Chúa Giêsu không có ý phủ nhận sự hiện hữu các cấp độ trung gian, nhưng chỉ muốn làm nổi bật tư tưởng của Ngài để ai không quen phân biệt, dễ dàng tiếp thụ hơn.
5. Trong câu cuối của đoản văn (c.45), hình ảnh thay đổi trái tim, trung tâm các quyết định có tính cách luân lý và tôn giáo nơi con người, lại như một kho tàng. Chính cái tâm của nhân cách, chính trung tâm các quyết định luân lý và tôn giáo làm cho lời nói và hành vi thành tốt hay xấu, tức là cả con người thành tốt hay xấu. Là ánh sáng cho kẻ khác. Người môn đệ Chúa Giêsu phải có một con tim tràn đầy thiện hảo. Sự tràn đầy này, chính là những lời nói và hành vi. Một lương tâm được giáo dục đích thật là điều kiện tiên quyết không thể thiếu của một Kitô giáo mang tính chất tông đồ.
Khi nào ta có thể nói con tim này là một kho tàng chứa toàn là thiện hảo, và chỉ phát sinh toàn là thiện hảo? Khi nào ta có thể nói nội tâm của một người là tốt? Khi nào thì người ấy có một lương tâm có giáo dục? Chiếu theo bản văn phúc âm, hữu thể con người như hiện có thì không đủ. Chỉ khi nào con người hoàn toàn được Chúa Giêsu, Thày mình trang bị, chuẩn bị thì con tim mới thật sự là tốt. Nếu con tim đó đã tiếp thụ Lời Chúa Giêsu, nếu nó đã được Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài thực sự chiếm hữu, lúc ấy nó mới trở thành một kho tàng, tràn đầy thiện hảo. Đòi hỏi cơ bản luôn luôn vẫn là một: lòng thống hối, sự hoán cải trở về với Chúa. Người tốt, là người nhờ việc hoán cải đã được lại trong tương quan đích thực và chân chính với Thiên Chúa. Tuy nhiên chẳng phải nguyên lòng thống hối tự nó làm con người nên tốt từ bên trong, nhưng là Thiên Chúa và Nước của Ngài. Nhưng Nước Thiên Chúa giả thiết sự trở về với Thiên Chúa, quay lưng lại với tội lỗi và trở nên hoàn toàn bé nhỏ trước mặt Ngài.
KẾT LUẬN
Người môn đệ Chúa Giêsu không chỉ là người chấp nhận yêu thương cả kẻ thù mình. Anh cũng là người cảm thấy nhiệt tình sâu xa với sự thăng tiến thiêng liêng của anh em. Người môn đệ là người nhận thấy có trách nhiệm về người khác, để thực hành bổn phận sửa bảo huynh đệ khi cần. Nhưng để có hiệu quả thực sự, trước hết anh phải tỉnh thức canh giữ mình. Chỉ người nào sau khi đã thành tâm tìm cách sửa đổi các lầm lỗi của mình, mới có thể sửa bảo anh em mà không giả hình như Biệt phái, điều này đòi hỏi người ấy phải luôn luôn tự xem mình chỉ là một môn sinh đối với thày duy nhất dù đang ở địa vị nào trong hội thánh.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Trong phúc âm này mời gọi ta hãy thận trọng:
a) Thận trọng trong việc chọn lựa một người hướng đạo tư tưởng và đời sống. Nhiều lệch lạc trong đức tin và hạnh kiểm đã là hậu quả của một sự tin tưởng mù quáng vào một thày mù.
b) Thận trọng trong khi tự đặt làm người hướng đạo kẻ khác, bằng cách tìm những phương thế thích đáng để tự đào luyện, để có kinh nghiệm cần thiết và biết chờ đợi quyền bính chính đáng trao phó trách nhiệm. Như vậy, ta tránh được lời Chúa Giêsu quở trách các người biệt phái: “Họ là những người mù dắt người mù” (Mt 15,12-14)
c) Thận trọng vì biết cân nhắc những gì ta dấn thân, cam kết. Người môn đệ Chúa Giêsu phải bằng lòng được đối xử không hơn thày mình.
2. Người môn đệ không được tự cho mình khôn ngoan hơn Chúa Kitô, vì chỉ có mình Ngài có những lời ban sự sống. Cũng không được nghĩ tới việc tìm một thày khác dạy cho mình những sự về Thiên Chúa. Bắt chước Chúa Kitô, tức là đi theo Ngài như một người hướng đạo, trong mọi sự đều cảm hứng bằng những tâm tình đã nung nấu Ngài. Cùng đi con đường thập giá và vinh quang với Ngài, cho dù khung cảnh sống và tính chất các hành động của ta khác với Ngài.
3. Nhận định đầu tiên phải có là nhận định về các lầm lỗi của ta. Ta thấy rất nhanh lầm lỗi kẻ khác. Dĩ nhiên đôi khi vì bổn phận (cha mẹ, nhà giáo dục) ta phải sửa bảo họ. Những lúc đó, ta phải làm với một đức ái to lớn, vì ý thức rằng mình cũng có những lầm lỗi tương tự, còn nặng nề hơn nữa.
4. Người tốt là người có trái tim tốt. Lòng tốt được biểu lộ qua muôn vàn chi tiết của cuộc sống hàng ngày: một cử chỉ tiếp đón hay tha thứ, một giúp đỡ hữu hiệu khi cần, một lời khích lệ, một câu nói nhẹ nhàng trước sự khiêu khích… Xin hy lễ tạ ơn này, xin Chúa Kitô hiện diện giữa chúng ta đây biến đổi thực sự tim ta và làm cho nó trở nên một kho tàng đích thật, để mọi người quanh ta có thể đến múc lấy dịu ngọt và ánh sáng mà họ đang cần.
Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt