Bài thuyết trình của Lm. Alphongso Phạm Hùng trong hội thảo về tu sĩ

VAI TRÒ CỦA SỰ HIỆN DIỆN VÀ SỨ VỤ CỦA TU SĨ 
TRONG CỘNG ĐOÀN GIÁO XỨ TGP HÀ NỘI

DẪN NHẬP

Mở đầu tông huấn Đời Sống thánh hiến năm 1996, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đã viết: “Ðời sống thánh hiến, bén rễ sâu trong gương sống và giáo huấn của Chúa Ki-tô, là một ân huệ Thiên Chúa Cha ban cho Giáo Hội” (VC 1). 

Sau cuộc di cư năm 1954, TGP Hà Nội chỉ còn sự hiện diện it1 ỏi của 3 hội dòng là Dòng Chúa Cứu thế, Dòng Phaolô và tu hội Mến Thánh Giá. Ngày nay sự hiện diện của các hội dòng đã trở nên phong phú hơn với nhiều sắc áo tu phục, diễn tả nhiều Hồng Ân Chúa ban cho TGP. Chúng ta có 7 giáo xứ được chăm sóc mục vụ bởi các tu sĩ – linh mục của 7 hội dòng khác nhau, 1 đan viện nam và 23 tu hội nữ hiện diện trong TGP vài tu hội hiện trong nhiều giáo xứ. Trong nỗ lực canh tân đời sống đức tin của TGP, nỗ lực canh tân đời sống đức tin của các tu sĩ là quan trọng để các hội dòng thật sự là ân huệ Chúa ban cho  TGP. Trong nỗ lực đó, bài tham luận này sẽ đề cập đến vai trò của sự hiện và sứ vụ của các tu sĩ trong tương quan với cộng đoàn giáo xứ thuộc TGP.

Bài này gồm 4 phần:

Phần 1: Bản chất của đời thánh hiến

Phần 2: Sự hiện diện của các tu sĩ trong cộng đoàn giáo xứ

Phần 3: Sứ vụ của các tu sĩ với cộng đoàn giáo xứ

Phần 4: Những vấn đề gợi mở

Bài tham luận này được viết dựa trên Hiến chế Giáo Hội của CĐ Vatican II, Tông huấn Đời Thánh Hiến Vita Consecrata (1996), và Tông thư Năm Đời Thánh Hiến 2014 của ĐGH Phanxicô để trình bày bản chất, vai trò, sứ vụ của đời sống các tu sĩ trong tương quan với cộng đoàn giáo xứ để gợi mở ra những ý kiến cụ thể, thực tế và sâu sắc hơn mà các tham dự viên có thể đóng góp trong buổi hội thảo hôm này hầu góp phần canh tân đời sống các tu sĩ. 

I. BẢN CHẤT CỦA ĐỜI THÁNH HIẾN 

Giáo Hội gọi các tu sĩ là những người thánh hiến. Tất cả các tín hữu đều là những người đã được thánh hiến cho Thiên Chúa qua bí tích rửa tội, nhưng các tu sĩ được mời gọi sống gần sát hơn với Chúa Kitô.  Trong hiến chế Giáo Hội Lumen Gentium, Công đồng Vatican II định nghĩa: “Bậc sống thánh hiến bắt chước cách chính xác hơn và thực hiện liên tục trong Giáo Hội nếp sống mà Con Thiên Chúa đã chấp nhận khi Người xuống thế để thi hành thánh ý Chúa Cha và cũng là nếp sống mà Người đã đề ra cho các môn đệ theo Người” (LG, 44). 

Nhờ tự nguyện tuyên khấn và sống ba lời khuyên phúc âm: khó nghèo, khiết tịnh, vâng lời, người tu sĩ họa lại nếp sống của Chúa Kitô cho Giáo Hội và nhân loại, Đấng đã sống tình yêu khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời Chúa Cha trong mọi sự. 

Giáo Hội có 3 bậc sống để trở nên đồng hình dạng với Chúa Kitô và đi theo ngài: 1) Giáo dân là những người được thánh hiến trong bí tích Thánh Tẩy để sống Tin Mừng giữa đời; 2) Các giáo sĩ còn được thánh hiến bằng bí tích Truyền chức thánh để tiếp tục tác vụ của các thánh tông đồ là giảng dạy, thánh hóa và chăm sóc mục vụ các tín hữu; 3) Các tu sĩ khi chấp nhận sống ba lời khuyên Phúc âm thì được thánh hiến để làm hiện thực nếp sống của Đức Kitô. Tuy tất cả ba bậc sống đều diễn tả vài khía cạnh của mầu nhiệm Đức Kitô, nhưng mỗi bậc có một sứ vụ đặc thù để xây dựng Hội Thánh: giáo dân đem men Tin Mừng vào các thực tại thế trần; các giáo sĩ chuyển thông các hồng ân cứu độ; các tu sĩ dâng hiến toàn thân để phụng sự Chúa và phục vụ anh chị em (x. VC 31).

Trong tông huấn Đời Thánh Hiến Vita Consecrata (1996), Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đưa ra 3 chiều kích của đời thánh hiến trong tương quan với Chúa Kitô, với Thiên Chúa Ba Ngôi và với Giáo Hội.

1. Với Chúa Kitô

Qua việc giữ 3 lời khuyên PA, người tu sĩ là biểu lộ ước muốn sống hoàn toàn nên đồng hình dạng với Chúa Kitô:

“Khi sống “vâng phục, không có của riêng và khiết tịnh,” những người tận hiến tuyên xưng rằng Ðức Giê-su là mẫu mực, nơi Người mọi nhân đức đạt tới mức hoàn hảo” (VC 18). Chúa Kitô đã chấp nhận lối sống đó để diễn tả mối quan hệ của Con Một đối với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.” Người thánh hiến kết hợp với Chúa Kitô trong một đức ái hoàn hảo là từ khước sự tự do, ý muốn và tiết dục hoàn toàn để nên một với Ngài. 

2. Với Thiên Chúa Ba Ngôi

Đời thánh hiến là một hồng ân, một sáng kiến phát xuất từ tình yêu của Chúa Cha: Ngài đã kêu gọi con người tiến lên trên đường trọn lành qua việc đi theo sát Đức Kitô. Ơn kêu gọi bao hàm việc Thiên Chúa tuyển chọn và thánh hiến một người và người đó đáp lại tiếng Chúa gọi bằng việc dâng hiến toàn thân cho Chúa (x. VC 17). 

Sống 3 lời khuyên PA cũng là ân huệ của Chúa Thánh Thần.  Dù rằng tất cả các Kitô hữu đều đã được thánh hiến cho Thiên Chúa qua bí tích rửa tội, nhưng không phải tất cả các tín hữu đều được kêu gọi để sống khiết tịnh, khó nghèo, vâng lời giống như Đức Kitô. Đó là một ơn gọi đặc biệt, được khêu gọi và trợ giúp bởi Thánh Thần để phát triển tất cả tiềm năng của ơn gọi của những người đã được rửa tội (VC 30).

Hơn nữa 3 lời khuyên phúc âm phản ánh nội tại đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi: Khiết tịnh nói về tình yêu giữa Ba Ngôi; khó nghèo phản ánh sự trao ban hoàn toàn giữa Ba Ngôi; vâng phục nói về sự thông hiệp của Ba Ngôi vị Thiên Chúa. 

3. Với Giáo Hội

Sống 3 lời khuyên PA là “con đường đặc biệt đưa đến sự thánh thiện” (VC 35). Đời sống của tu sĩ có vai trò quan trọng cho đời sống thánh thiện của Giáo hội và trong sứ vụ truyền giáo. Giáo hội có nhiệm vụ loan báo Đức Kitô cho nhân loại, không chỉ thông truyền những lời Chúa Kitô mà còn phải thông truyền cả nếp sống của Ngài nữa. Tông huấn Đời Thánh hiến viết: “Khi xét sứ mạng của Giáo Hội là phải biểu lộ sự thánh thiện, thì với cái nhìn khách quan, đời thánh hiến đứng ở một bình diện ưu việt, bởi vì phản ánh chính lối sống của Ðức Ki-tô. Chính vì thế, đời thánh hiến biểu lộ phong phú những giá trị của Tin Mừng và làm sáng tỏ trọn vẹn hơn mục tiêu của Giáo Hội là thánh hoá nhân loại.” (VC 32). Hơn nữa đời thánh hiến diễn tả bản chất hiền thê của giáo hội, là sự kết hợp giữa Hội Thánh với Chúa Kitô.

II. SỰ HIỆN DIỆN CỦA TU SĨ TRONG ĐỜI SỐNG GIÁO XỨ

Các hội dòng có đặc sủng khác nhau nhưng đều mang những sứ vụ của Giáo Hội tùy theo nhu cầu và hoàn cảnh của từng thời đại. Sứ vụ có tầm quan trọng trong cấu trúc của đời sống thánh hiến. Thánh hiến và sứ vụ gắn chặt với nhau: Thiên Chúa thánh hiến một người nhằm trao cho họ một sứ vụ và sứ vụ diễn tả sự tận hiến người tu sĩ cho Thiên Chúa để thi hành chương trình cứu độ dành cho nhân loại.  Sự hiện diện hợp pháp theo Giáo luật của cộng đoàn tu sĩ trong một giáo xứ luôn mang lại ảnh hưởng đến đời sống đức tin của một giáo xứ.  

 1. Sự hiện diện thánh thiện của cộng đoàn tu sĩ 

Ơn gọi của những người tận hiến là tiên vàn tìm kiếm Nước Thiên Chúa trên hết mọi sự, hoán cải và từ bỏ chính mình để sống hoàn toàn cho Chúa” (VC 35).  Đời sống theo 3 lời khuyên PA là “trường dạy phụng sự Chúa, trường dạy yêu thương và sống thánh thiện.” Lối sống Tin Mừng này là con đường hiệu năng và dồi dào phương tiện để nên thánh thiện. (x. VC 35). Đời sống các tu sĩ là sự hiệp thông bền chặt với Chúa Kitô, nên bí tích Thánh Thể phải là trung tâm, lương thực và nguồn linh đạo của đời thánh hiến.

Ðời sống thánh thiện của tu sĩ là sự trung thành với thập giá Chúa Kitô “được biểu lộ nếp sống ẩn mình khiêm tốn, chấp nhận những đau khổ để bổ túc nơi chính thân xác họ “những gì còn thiếu nơi những gian nan thử thách của Ðức Ki-tô” (Cl 1,24), qua hy sinh thầm lặng… Lòng trung thành với Thiên Chúa cũng đưa đến lòng tận tuỵ đối với tha nhân; ..chấp nhận hy sinh khi thường xuyên chuyển cầu cho những nhu cầu của anh em họ, khi phục vụ quảng đại những người nghèo khổ và những người đau ốm, khi chia sẻ những khó khăn của những người khác, khi tích cực tham dự vào các mối bận tâm và những thử thách của Giáo Hội” (VC 75).

Trong bài giảng lễ ngày Đời thánh hiến 2/2.2022 vừa qua, ĐGH Phaxicô đã hỏi các tu sĩ: “Chúng ta chủ yếu để mình được lay động bởi ai: bởi Chúa Thánh Thần hay bởi tinh thần thế tục? Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta nhận thức được sự hiện diện của Thiên Chúa và công việc của Người không phải nơi những điều cao cả, với vẻ bên ngoài sặc sỡ, phô trương sức mạnh, nhưng nơi sự bé nhỏ và mong manh. Chúng ta hãy nghĩ đến thập tự giá: ở đó cũng có sự nhỏ bé, mong manh, thậm chí là một bi kịch.” 

Trung thành với thập giá đưa tu sĩ đến cuộc chiến đấu thiêng liêng qua phương thế khổ chế để giúp chế ngự và sửa chữa những khuynh hướng của bản tính nhân loại đã bị tổn thương vì tội lỗi.. để người tận hiến trung thành với ơn gọi của mình.” (VC 38). 

Sự thánh thiện của các tu sĩ được đạt tới và biểu lộ qua thinh lặng. Thinh lặng để nghe và nuôi dưỡng trong thái độ thờ phượng Chúa. Thinh lặng để cầu nguyện, chiêm niệm và chầu Thánh Thể. Thinh lặng để tìm ý Chúa và hiểu ý Chúa. Thinh lặng để yêu thương và tha thứ. 

Tông huấn Đời thánh hiến một đằng khen ngợi sự dấn thân  vào đời của tu sĩ để đồng hành với mọi người và đáp ứng với thách đố thời đại, nhưng cũng cảnh cáo rằng họ có thể đi tới chỗ “chiều theo thời trang nhất thời, giảm bớt lòng nhiệt thành thiêng liêng hoặc sờn lòng nản chí. Người tu sĩ bị cám dỗ dựa vào sức mình và tài khéo của mình và phương tiện con người mà không dựa vào Chúa” và họ có nguy cơ “dẫn đến một lối sống tục hoá, hoặc cổ võ những giá trị nhân bản hoàn toàn theo chiều ngang” hoặc họ hoạt động dính líu đến chính trị (x. VC). 

Cộng đoàn giáo xứ rất nhậy cảm về đời sống thánh thiện của các tu sĩ đang hiện diện giữa họ (như một thứ sensus fidelium). Trong một xã hội ảnh hưởng bởi các chủ nghĩa vô thần, duy vật, cá nhân, vật chất và hưởng lạc, sự hiện diện thánh thiện của các tu sĩ nhắc nhở và khơi lên cho mỗi tín hữu khát vọng trở nên vị thánh, đồng thời trợ giúp họ luôn chỗi dậy sống thánh thiện, tìm kiếm Nước Chúa là mục đích tối hậu của con người. 

Giáo Hội có sứ mệnh hiện diện hữu hình như dấu chỉ của niềm hy vọng và ơn cứu độ cho thế giới đang bị tục hóa và gạt bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài. Vì thế sự hiện diện hữu hình của các tu sĩ sẽ trở nên dấu chỉ quan trọng để nhắc nhở con người về Thiên Chúa, Tông huấn Đời thánh khuyến khích mạnh mẽ các tu sĩ “mặc tu phục, được thích nghi xứng hợp với thời đại và nơi chốn” hay một y phục đơn giản xứng đáng, để người ta có thể nhận họ là những người thánh hiến (VC 25). 

2. Sự hiện diện với niềm vui của cộng đoàn tu sĩ

ĐGH Phanxicô là vị giáo hoàng vui vẻ với nụ cười tự nhiên và cởi mở. Vị giáo hoàng tu sĩ dòng Tên luôn nhắc đến niềm vui tin mừng nơi mỗi tín hữu. Trong tông thư Năm đời thánh hiến, ngài nhấn mạnh đến niềm vui thánh hiến như sau: “Ở đâu có tu sĩ, thì có niềm vui. Chúng ta được mời gọi cảm nghiệm và chứng tỏ rằng Thiên Chúa có khả năng lấp đầy con tim của chúng ta và làm cho chúng ta được hạnh phúc, không cần phải đi tìm hạnh phúc ở đâu khác; chứng tỏ rằng tình huynh đệ chân chính sống trong các cộng đoàn của chúng ta nuôi dưỡng niềm vui.”  Niềm vui của tu sĩ xuất phát từ đời sống thánh thiện và huynh đệ trong cộng đoàn, cũng như từ sự tận hiến phục vụ Giáo hội và mọi người. 

Ngày 4/10/2013 ĐGH Phanxicô đã nói với các nữ tu dòng kín Thánh Clara ở Assisi như sau: “Cha rất thất vọng khi gặp những nữ tu không vui, chỉ mỉm cười xã giao như những tiếp viên hàng không, mà không phải là cái vui từ bên trong…. Các nữ tu không cần sống quá thiêng liêng mà phải là những chuyên viên nhân bản để nhà dòng không phải là nơi luyện ngục… đừng nhìn nhau với những bộ mặt buồn sầu, những con người bực bội và bất mãn.” Theo ĐGH, các tu sĩ, như mọi người khác, họ cũng gặp những khó khăn, những đêm tối nội tâm, những chán chường, bệnh tật, xuống sức vì tuổi già, nhưng họ tìm ra niềm vui trọn vẹn vì biết mình nên giống Chúa Kitô đã yêu thương con người mà mang lấy phận người và nhận cái nghiệt ngã của thập giá. Họ biết kết hợp với Chúa Kitô trong đau khổ để yêu mến ngài, điều đó làm cho họ có niềm vui. (x. Tông thư gửi các tu sĩ Năm đời thánh hiến 2014). 

Các con cái của thánh Phanxicô đều biết câu chuyện thánh Phanxicô dạy cho thày Lêô viết thế nào là niềm vui trọn hảo: Trong đêm tối bão tuyết lạnh lẽo, nếu hai tu sĩ trở về nhà dòng, vừa lạnh, vừa đói, mình đầy bùn đất, nhưng 3 lần gõ cửa đều bị thày giữ cửa xua đuổi vì tưởng rằng đó là những kẻ giả mạo. Lần thứ ba, thày giữ cửa cầm gậy ra đánh đập vì cho rằng quân cướp đến phá nhà dòng. Nếu cả 3 lần, 2 thày chịu lạnh đói, sự bất công xỉ nhục tàn bạo này với nhẫn nại, khiêm nhường, không kêu ca và tin rằng Chúa bảo thày giữ cửa xử sự như vậy. Đó là niềm vui trọn hảo. Niềm vui của tu sĩ bắt nguồn từ kết hợp với Chúa Kitô chịu đóng đinh. 

Như vậy, một giáo xứ có sự hiện diện của các tu sĩ phải có niềm vui nhiều hơn những giáo xứ không có tu sĩ hiện diện. Các tín hữu luôn gặp muôn khó khăn thử thách đau khổ về mọi mặt, hôn nhân, gia đình, con cái, công việc, sức khỏe, những khủng hoảng nội tâm. Sự hiện diện với niềm vui của các tu sĩ trong giáo xứ sẽ là sự đồng hành đầy an ủi với giáo dân, sẽ có sức truyền cảm và sức mạnh truyền giáo, lan tỏa đến người khác và thu hút họ đến với Chúa Kitô, đồng thời cũng đưa những bạn trẻ đến với ơn gọi. Họ nhận ra các tu sĩ là những người hạnh phúc và vẻ đẹp của Tin Mừng qua đời sống chứng tá tu trì. 

III. SỨ VỤ CỦA TU SĨ VỚI ĐỜI SỐNG GIÁO XỨ

1. Phục vụ cho Nước Thiên Chúa

“Nhờ việc tuyên giữ các lời khuyên Tin Mừng, các nét đặc trưng của Ðức Giêsu – khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục – trở thành hữu hình giữa lòng thế giới như một gương mẫu thường hằng, và các tín hữu được mời gọi hướng nhìn về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã tác động trong lịch sử, nhưng còn đang chờ đạt tới viên mãn ở trên trời” (VC 1). 

Chúa Kitô chính là Nước Trời. Sự thánh thiện qua việc sống 3 lời khuyên phúc âm: khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời có động lực bởi của đức ái trọn hảo của một người với Chúa Kitô: Chúa Giêsu là tình yêu thứ nhất và độc nhất. Sự tiết dục hoàn toàn vì Nước Trời là tình yêu không chia sẻ với Chúa Kitô và hoàn toàn phụng sự Người. Việc giữ lời khấn khó nghèo và vâng lời là muốn sống sát gương Chúa Giêsu, đấng đã tự hạ mình sống nghèo và vâng lời Chúa Cha trong mọi sự. 

Theo Đức Phanxicô, các tu sĩ phải là những ngôn sứ, chỉ lo cho lợi lộc của Thiên Chúa, bằng cách sống ơn gọi đặc biệt của mình để thức tỉnh thế giới về Thiên Chúa, Chúa Kitô và sự công chính. 

Người tận hiến “được sai đi” do chính sự thánh hiến của mình, bằng đời sống và chứng tá hoạt động tông đồ làm cho Ðức Ki-tô hiện diện” (x. VC 72). Như Chúa dạy: “Kho tàng các con ở đâu lòng các con ở đó.” Đời sống tu trì nhắc nhở các kitô hữu không đặt thành trì vĩnh viễn ở đời này, nhưng đi tìm một thành trì vĩnh cửu mai sau, tức là tích trữ kho tàng không hư nát. Đời sống các tu sĩ nhắc nhở những người kết hôn rằng đời sống kết hôn của họ là cuộc hành trình đến một đích điểm là 

hôn lễ của Hội Thánh với Con Chiên Thiên Chúa tại Jerusalem thiên quốc, nơi mà người ta sẽ không còn dựng vợ gả chồng, vì họ được hoàn toàn hạnh phúc trong Thiên Chúa.

2. Phục vụ cho hiệp thông giáo xứ

Tông hiến Đời thánh hiến nhìn nhận vai trò của các tu sĩ là “trở thành chất men hiệp thông sứ vụ trong Giáo Hội phổ quát, vì các đoàn sủng khác nhau của các tu hội khác nhau được Chúa Thánh Thần ban cho là để mưu ích cho toàn Nhiệm Thể, nên họ phải phục vụ xây dựng Nhiệm Thể [Hội thánh] (VC 46). Thư Năm đời Thánh hiến kêu gọi các tu sĩ sống với đam mê là trở nên “các chuyên viên của tình hiệp thông”, “các chứng nhân và người làm nên “dự án hiệp thông” đang ở đỉnh cao của lịch sử của con người theo ý của Thiên Chúa.” 

Hiệp thông trước hết trong nội bộ cộng đoàn hội dòng, mỗi nhà dòng, và những nhà của cùng tu hội với nhau. Đức Thánh Cha viết: “Tiên vàn sự hiệp thông được thực hành ngay tại các cộng đoàn trong dòng…. những lời chỉ trích, đàm tiếu, ghen tương, tị hiềm, đố kỵ không được phép cư ngụ ở trong nhà của anh chị em. Sau tiền đề ấy, con đường bác ái còn lại hầu như là vô tận, bởi vì bao gồm việc đón tiếp và quan tâm lẫn nhau, thực hành sự chia sẻ những tài nguyện vật chất và tinh thần, sửa bảo huynh đệ, tôn trọng những người yếu đuối, … Chính “huyền nhiệm chung sống với nhau” làm cho cuộc đời trở nên một cuộc “lữ hành thánh thiện.” (Thư Năm đời thánh hiến, 2014).  

Sau đó là sự hiệp giữa các hội dòng khác nhau. Đức Thánh Cha kêu gọi mỗi tu hội cần “mạnh dạn ra khỏi biên cương của Dòng mình để cộng tác với những dòng khác trong những hoạt động truyền giáo, bác ái. Sự hiệp thông giữa các tu hội khác nhau được xây dựng trên 2 yếu tố: cùng là những người cam kết đi theo Chúa Kitô (sequela Christi) được thúc đẩy bởi cùng một Thánh Thần và được liên kết bởi đức ái. Như vậy nếu một giáo xứ có từ 2 hội dòng đang hiện diện trong lãnh thổ, sự cộng tác của các dòng với nhau là yếu tố cần thiết cho sự hợp nhất giáo xứ vì đó không những là gương sáng, nhưng vì theo kinh nghiệm, mỗi hội dòng có gắn kết với một số giáo dân nhất định trong giáo xứ. 

Quan trọng hơn nữa là sự hiệp thông giữa nhà dòng đang hiện diện với Giáo phận, gần hơn là với linh mục, giáo dân của giáo xứ trong cộng tác vào những công tác mục vụ. Tông hiến Đời Thánh Hiến viết: “Khi điều phối việc phục vụ Giáo Hội phổ quát với việc phục vụ Giáo Hội địa phương, các tu hội không thể nại đến quyền tự trị chính đáng của mình, và thậm chí quyền miễn trừ mà nhiều tu hội được hưởng, để biện minh cho những chọn lựa đi ngược lại những đòi hỏi của sự hiệp thông hữu cơ cần thiết cho đời sống lành mạnh của Giáo Hội” (VC 49). 

Các tu sĩ luôn là yếu tố quan trọng giúp cho sự hiệp thông của giáo xứ được vững mạnh. Đối với các linh mục dòng đang phụ trách các giáo xứ, sự hiệp thông của các cha với giáo dân trong giáo xứ phải được xây dựng trên quan tâm trước hết đến lợi ích thiêng liêng của giáo xứ, cần có sự cân nhắc khi đưa những linh đạo và đặc sủng của dòng vào đời sống của giáo xứ.  Và sự hiệp thông này chỉ có thể có nếu có sự hiệp thông với Đ. Giám mục sở tại và giáo phận trong các đường hướng mục vụ. 

 3. Phục vụ cho truyền giáo

Thánh Giáo hoàng Phaolô VI khẳng định trong tông huấn Truyền Giáo (1975): Giáo hội hiện hữu để truyền giáo. Theo Tông huấn Đời Thánh Hiến, nội tại đời sống huynh đệ hiệp nhất yêu thương của cộng đoàn tu sĩ là khởi nguồn và chính là thực thi sứ vụ truyền giáo “việc hiến dâng cho Chúa Giê-su càng đi vào nội tâm, cách sống cộng đoàn càng đậm tình huynh đệ, sự dấn thân vào sứ mạng đặc thù của tu hội càng hăng say, thì đời tu càng có giá trị tông đồ” (VC 72). 

Tình yêu Chúa trên hết và duy nhất là động lực để các tu sĩ không thể ở yên mà ra đi truyền giáo cho dân ngoại. Truyền giáo là nhiệm vụ của mỗi tín hữu, nhưng “nỗi thao thức này được nuôi dưỡng đặc biệt nơi các người tận hiến, dù chiêm niệm hay hoạt động.” Qua sự hiện diện của mình, các tu sĩ phục vụ sứ mạng làm cho Ðức Ki-tô khiết tịnh, khó nghèo, vâng phục, cầu nguyện và truyền giáo được hiện diện ngay cả giữa dân ngoại (VC 77).

Các cộng đoàn Kitô hữu tại VN chỉ là một thiểu số ít ỏi.  Qua nhiều thập niên vì hoàn cảnh khó khăn của xã hội và thiếu linh mục, nhiệm vụ bảo tồn đức tin (giữ đạo) trong những thử thách được đặt lên hàng đầu. Và hiệu quả phụ là lửa truyền giáo Ad gentes đã yếu đi rất nhiều, hay có thể nói các tin hữu không còn cảm thức về truyền giáo, họ không được củng cố về giáo lý và học hiểu Kinh Thánh. Nhiệm vụ tái truyền giáo cho những người đã rửa tội mà không biết về đức tin và không thực hành đức tin cũng trở nên cấp bách cho mỗi cộng đoàn giáo xứ. 

Như vậy khi hiện diện trong một giáo xứ, các tu sĩ luôn có một cánh đồng rộng lớn, một vườn nho nhiều việc của Chúa. Sự dấn thân của các tu sĩ cho việc cầu nguyện, gặp gỡ lương dân, giới thiệu Chúa Kitô và dạy giáo lý dự tòng, giáo lý cho giáo dân có vai trò quan trọng cho nhiệm vụ truyền giáo của giáo xứ. Thiết tưởng, các nữ tu phải được trang bị đầy đủ về giáo lý và kinh thánh để có khả năng dạy giáo lý và truyền giáo phải là nhiệm vụ ưu tiên của các hội dòng. 

4. Phục vụ cho bác ái xã hội

Đi theo sát Chúa Giêsu trong nếp sống của Người, Đấng đã tự hạ mình phục vụ nhân loại, các tu sĩ được thúc đầy phục vụ người khác trong sự hiến mình khiêm hạ không tính toán ích kỷ (X. CV 75). 

ĐGH Phanxicô kêu gọi các tu sĩ hãy ra khỏi chính mình và đi về những vùng ngoại ô của cuộc đời: “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ.”  “Anh chị em đừng khép lại trong chính mình, đừng để mình bị ngột ngạt với những chuyện lẩm cẩm trong nhà, đừng bị giam hãm trong những vấn đề nội bộ. Những vấn đề này sẽ được giải quyết nếu anh chị em đi ra ngoài để giúp những người khác giải quyết những vấn đề của họ và loan báo Tin Mừng. Anh chị em sẽ tìm thấy sự sống khi ban phát sự sống, tìm thấy hy vọng khi ban phát hy vọng, tìm thấy tình thương bằng cách yêu thương” (Thư Năm đời thánh hiến, 2014). 

Sự lựa người nghèo nằm trong chính sự phục vụ của Chúa Ki-tô. Nên người nghèo phải là lựa chọn ưu tiên phục vụ của các tu sĩ là những muốn theo Chúa Ki-tô sát hơn bằng cách bắt chước cách sống của Người.

IV. NHỮNG VẤN ĐỀ GỢI MỞ

Theo Thánh GH Gioan Phaolô II, đời thánh hiến “nằm ngay trong lòng Giáo Hội như một yếu tố quyết định của Giáo Hội” vì liên quan đến bản chất thánh thiện và sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội. Nhưng chúng ta không thể không có ưu tư là: Làm thế nào để sự hiện diện của 1 cộng đoàn tu sĩ hay nhiều cộng đoàn trong một giáo xứ là một sự hiện diện mang lại phúc lành cho chính cộng đoàn tu sĩ và cho giáo xứ? Xin được đưa ra vài vấn đề gợi mở sau đây:

1. Thành lập một cộng đoàn tu sĩ:

GL Điều 609 quy định: 

§1. Những nhà của một hội dòng được nhà chức trách có thẩm quyền thành lập theo hiến pháp, với sự đồng ý bằng văn bản của Giám mục giáo phận.

Điều 610

§1. Việc thành lập các nhà đòi phải lưu ý đến ích lợi của Giáo Hội và của tu hội, và phải bảo đảm những gì cần thiết để các thành viên có thể sống đời tu xứng hợp, theo những mục đích riêng cũng như theo tinh thần của tu hội.

§2. Không nên thành lập một nhà nào, nếu không thể dự liệu cách khôn ngoan rằng các nhu cầu của các thành viên sẽ được đáp ứng cách thích đáng.

Có nhiều hội dòng khác nhau. Mỗi hội dòng có một đặc sủng riêng biệt. Không phải sự hiện diện của bất cứ hội dòng nào cũng mang lại nhiều hữu ích thiêng liêng cho 1 giáo xứ và cũng không phải bất cứ giáo xứ nào cũng có thể mang lại lợi ích thiêng liêng cho cộng đoàn tu sĩ. Vấn đề là sự chọn lựa của 1 hội dòng khi định lập 1 nhà tại một giáo xứ và sự lựa chọn của một giáo xứ khi định xin một hội dòng đến giáo xứ phải xem xét cẩn trọng theo những điều kiện nào trước khi trình ĐGM? 

2.  Lumen Gentium 45 viết: “Khi chu toàn phận vụ đối với Giáo Hội qua cách sống đặc biệt của mình, các tu sĩ phải kính trọng và vâng lời các Giám Mục theo giáo luật, vì phải tôn trọng quyền mục vụ của các ngài trong Giáo Hội địa phương và vì cần phải có sự đồng tâm nhất trí trong việc tông đồ.” 

Đối với tu sĩ, sự vâng lời bề trên hội dòng thuộc về lời khấn và bản chất của đời thánh hiến, vậy khi hiện diện và hoạt động trong giáo phận, sự vâng phục Đức giám mục địa phương được nhìn nhận thế nào trong tương quan đến lời khấn vâng lời trong dòng tu?

3. Làm thế nào để có sự cộng tác giữa tu sĩ với linh mục và giáo dân trong giáo xứ để phục vụ cho Nước Chúa được lan tỏa trong giáo xứ, cùng nhau phụng sự Thiên Chúa và vì ơn cứu độ cho các linh hồn? 

4. Tông huấn Đời thánh hiến nói về vai trò của Đ. Giám mục giáo phận “là cha và mục tử của toàn thể Giáo Hội địa phương.” Ngài sẽ nhìn nhận và tôn trọng những đoàn sủng khác biệt, thăng tiến và phối hợp các hội dòng như những ân huệ cho lợi ích của tu hội, và lợi ích cho toàn thể Giáo Hội. Ngài sẽ nâng đỡ và trợ giúp những người tận hiến, hầu họ sống hiệp thông với Giáo Hội, mở ra những viễn tượng thiêng liêng và mục vụ đáp ứng với thời đại (VC 49). Những điều Tông huấn nói với các giám mục cũng gợi mở cho các linh mục, giáo dân trong việc cộng tác và nâng đỡ các tu hội để họ trung thành sống đặc sủng mà Thánh Thần ban cho họ để phục vụ Hội Thánh. 

KẾT LUẬN

Tông huấn Đời thánh hiến khẳng định: “Một giáo phận không có đời thánh hiến hẳn sẽ thiếu mất nhiều ân huệ thiêng liêng, thiếu những nơi dành cho việc tìm kiếm Thiên Chúa, thiếu những hoạt động tông đồ và những phương pháp mục vụ chuyên biệt; hơn nữa giáo phận ấy có thể suy yếu đi rất nhiều bởi thiếu vắng tinh thần truyền giáo là đặc trưng của đa số các tu hội” (VC 49).

“Thế giới sẽ ra sao nếu không có các tu sĩ ?” Ðời sống của Giáo Hội, và của cả xã hội nữa, đang cần những người dám dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa và cho tha nhân vì lòng mến Thiên Chúa (VC 105).

Theo Thánh GH Gioan Phaolô II, như cô Ma-ri-a ở Betania trong TM Gioan đã lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Ðức Giê-su, rồi lấy tóc mà lau, cả nhà sực mùi thơm, các tu sĩ dâng hiến cả cuộc đời hoàn toàn cho Chúa và không tính toán để đáp trả tình yêu Chúa, khiến cho hương thơm tình yêu dâng hiến của họ lan tỏa đầy nhà Thiên Chúa và thế giới. 

Trong nỗ lực canh tân đời sống đức tin, chúng ta ước mong một sự canh tân trong đời sống và sứ vụ của các tu sĩ đang hiện diện trong TGP Hà Nội, để thông truyền Tin mừng và nếp sống của Chúa Kitô cho mọi người, ngõ hầu hương thơm dâng hiến thánh thiện của các tu sĩ sẽ ngào ngạt khắp ngôi nhà TGP và xã hội này.

Xin cám ơn sự lắng nghe của mọi người.  

Lm. Alphongso Phạm Hùng

Facebook
Twitter
Email
Print
Scroll to Top