Tông Thư Rosarium Virginis Mariae Của Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II

JP2-Coat

TÔNG THƯ ROSARIUM VIRGINIS MARIAE CỦA ĐỨC THÁNH CHA GIO-AN PHAO-LÔ II GỬI CÁC GIÁM MỤC, LINH MỤC VÀ CÁC TÍN HỮU VỀ KINH RẤT THÁNH MÂN CÔI

DẪN NHẬP

1. Kinh mân côi kính Đức Trinh Nữ Maria, dần dần được hình thành trong Ngàn năm thứ hai dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần Thiên Chúa, là một lời kinh được vô vàn các vị thánh yêu thích và được Huấn quyền khuyến khích. Đơn sơ nhưng sâu sắc, lời kinh này vẫn là một lời kinh có ý nghĩa lớn lao vào buổi hừng đông của Ngàn năm thứ ba này, vì mang lại hoa quả thánh thiện. Nó dễ dàng hoà nhập vào cuộc hành trình thiêng liêng của đời sống Kitô hữu, đời sống này sau hai ngàn năm vẫn không đánh mất sự tươi trẻ của buổi ban đầu và cảm thấy được Thánh Thần Thiên Chúa lôi kéo chèo ra chỗ sâu (duc in altum !) để một lần nữa loan báo, và cả đến hô to lên, trước thế gian rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa và Đấng Cứu độ, là đường, sự thật và sự sống (Ga 14,6), mục tiêu của lịch sử nhân loại và đích điểm mà các khát vọng của lịch sử và văn minh hướng về.[1]

Kinh mân côi, dầu rõ ràng gắn liền với Đức Maria, chủ yếu là một lời kinh lấy Đức Kitô làm trung tâm. Qua vẻ giản dị của các yếu tố, lời kinh có được chiều sâu của toàn bộ sứ điệp Tin mừng, mà ta có thể gọi là một bản tóm lược.[2] Qua lời kinh ấy vang vọng lại lời kinh của Đức Maria, kinh Magnificat ca ngợi việc Nhập thể cứu chuộc đã khởi sự trong cung lòng trinh khiết của ngài. Với Kinh mân côi, Dân Kitô giáo theo học tại ngôi trường của Đức Maria và được dẫn đến chiêm ngưỡng vẻ đẹp trên dung nhan của Đức Kitô và kinh nghiệm chiều sâu thẳm tình yêu của Người. Qua Kinh mân côi các tín hữu lãnh nhận vô vàn ơn thiêng, hầu như qua chính đôi tay của Mẹ Đấng Cứu Thế.

Các Giáo hoàng và Kinh mân côi

2. Nhiều vị tiền nhiệm của tôi đã gán một tầm quan trọng lớn lao cho lời kinh này. Đáng đặc biệt ghi nhớ là Đức Giáo hoàng Lêô XIII ngày 1.9.1883 đã ban hành Thông điệp Supremi Apostolatus Officio,[3] một văn kiện rất có giá trị, khởi đầu của nhiều lời phát biểu của ngài về lời kinh này; trong Thông điệp này, ngài xem Kinh mân côi như một vũ khí thiêng liêng hữu hiệu chống lại sự dữ đang phương hại đến xã hội. Trong số các Giáo hoàng mới đây, từ Công đồng Va-ti-ca-nô II, nổi danh trong việc cổ võ Kinh mân côi, tôi muốn nhắc đến Á thánh Gio-an XXIII [4] và nhất là Đức Giáo hoàng Phao-lô VI, trong Tông huấn Marialis Cultus, đã nhấn mạnh, theo tinh thần của Công đồng Va-ti-ca-nô II, tính chất tin mừng của Kinh mân côi và chiều hướng quy Kitô. Chính tôi cũng đã thường xuyên khuyến khích năng đọc Kinh mân côi. Từ thuở niên thiếu, lời kinh này đã có một chỗ đứng quan trọng trong đời sống thiêng liêng của tôi. Tôi đã được gợi nhớ cách mãnh liệt về điều đó qua chuyến công du mới đây về Ba Lan, và nhất là tại Đền thánh Kalwaria. Kinh mân côi đã đồng hành với tôi trong những lúc vui sướng và trong những giai đoạn khó khăn. Tôi đã giao phó cho lời kinh ấy biết bao lo âu; nơi lời kinh ấy tôi đã luôn tìm được sự nâng đỡ. Cách đây 24 năm, vào ngày 29.10.1978, vừa mới hai tuần sau khi được chọn lên ngôi toà Phê-rô, tôi đã thẳng thắn thừa nhận: Kinh mân côi là lời kinh tôi ưa thích. Một lời kinh kỳ diệu ! Kỳ diệu qua vẻ đơn sơ và chiều sâu của nó. […]. Có thể nói rằng Kinh mân côi, theo một nghĩa nào đó là lời kinh chú giải chương cuối cùng của Hiến chế Lumen Gentium của Công đồng Va-ti-ca-nô II, một chương đề cập đến sự hiện diện đáng thán phục của Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm Đức Kitô và mầu nhiệm Giáo hội. Trên bối cảnh lời kinh Ave Maria những biến cố chính trong đời sống Đức Giêsu Kitô diễn ra trước con mắt của linh hồn. Được quy lại thành những mầu nhiệm vui, thương và mừng, chúng dẫn chúng ta đến thông hiệp cách sống động với Đức Giêsu qua con tim của Mẹ Người, ta có thể nói thế. Đồng thời con tim của chúng ta có thể gán vào chục kinh Kính Mừng mọi biến cố của đời sống cá nhân, gia đình, quốc gia, Giáo hội và toàn thể nhân loại. Mối quan tâm của riêng ta và của những người thân cận, đặc biệt những người gần gũi nhất của ta, những người thân thiết nhất của ta. Vì thế lời kinh mân côi đơn sơ ghi dấu ấn lên nhịp sống của con người.[5]

Anh chị em thân mến, với những lời này, tôi đã đặt những năm đầu của triều giáo hoàng trong nhịp sống hằng ngày của Kinh mân côi. Hôm nay, khi bắt đầu năm thứ 25 phục vụ trong tư cách người kế vị thánh Phê-rô, tôi muốn làm lại cũng một điều đó. Biết bao nhiêu ơn lành tôi đã lãnh nhận được trong những năm tháng này từ Đức Thánh Trinh nữ qua Kinh mân côi: Magnificat anima mea Dominum ! Tôi muốn dâng lời cảm tạ lên Chúa bằng những lời kinh của Mẹ rất thánh của Người, dưới sự che chở của ngài, tôi đã đặt công việc phục vụ giáo hoàng của tôi: Totus Tuus !

Tháng 10.2002 -Tháng 10.2003: Năm của Kinh mân côi

3. Vì thế, tiếp nối suy tư của tôi trong Tông Thư Novo Millennio Ineunte, trong đó, sau kinh nghiệm Năm Thánh, tôi đã mời gọi Dân Thiên Chúa xuất phát lại từ Đức Kitô,[6] tôi cảm thấy được thôi thúc đưa ra một suy tư về Kinh mân côi, như một thứ bổ túc thánh mẫu học cho Tông thư ấy và một lời khuyên nhủ chiêm ngưỡng dung nhan Đức Kitô trong tâm tình thông hiệp với, và theo trường học của, Mẹ rất thánh Người. Đọc Kinh mân côi chính là chiêm ngưỡng với Đức Maria dung nhan Đức Kitô. Để làm nổi bật lời mời gọi này, nhân cơ hội kỷ niệm 120 năm ban hành Thông điệp của Đức Lê-ô XIII nói trên, tôi ước muốn rằng suốt năm nay, Kinh mân côi sẽ được đặc biệt đề cao và cổ võ trong các cộng đồng Kitô giáo khác nhau. Vì thế tôi công bố từ tháng 10 năm 2002 đến tháng 10 năm 2003 là Năm của Kinh mân côi.

Tôi giao phó đề nghị mục vụ này cho sáng kiến của mỗi cộng đoàn Giáo hội. Ý hướng của tôi không phải là chất thêm gánh nặng nhưng đúng hơn kiện toàn và củng cố những chương trình mục vụ của các Giáo hội địa phương. Tôi tin tưởng rằng đề nghị này sẽ được sẵn lòng và quảng đại đón nhận. Nếu được tái khám phá trong ý nghĩa trọn vẹn của nó, Kinh mân côi đi vào giữa lòng đời sống Kitô hữu; nó trao ban một cơ hội quen thuộc nhưng đem nhiều hoa quả thiêng liêng và giáo dục cho đời sống chiêm ngưỡng cá nhân, đào tạo Dân Thiên Chúa và công cuộc phúc âm hoá mới. Tôi sung sướng tái khẳng định điều đó khi vui mừng tưởng nhớ một kỷ niệm khác: kỷ niệm 40 năm khai mạc Công đồng Va-ti-ca-nô II vào ngày 11 tháng 10 năm 1962, hồng ân lớn lao mà Thần Khí Thiên Chúa ban cho Giáo hội thời đại chúng ta.[7]

Ý kiến bác bẻ Kinh mân côi

4. Đề nghị này quả là hợp thời xét từ nhiều lý do. Trước tiên, nhu cầu cấp bách phải đối diện với một thứ khủng hoảng nào đó của Kinh mân côi, mà trong bối cảnh lịch sử và thần học hiện tại có nguy cơ bị hạ giá cách sai lầm, và do đó không còn được truyền dạy cho thế hệ trẻ nữa. Có vài người nghĩ rằng tính cách trung tâm của phụng vụ, được Công đồng Va-ti-ca-nô II nhấn mạnh cách chính đáng, đương nhiên dẫn đến việc giảm bớt tầm quan trọng của Kinh mân côi. Vâng, như đức giáo hoàng Phao-lô VI đã làm sáng tỏ, lời kinh này không những không đối lập với Phụng vụ, nhưng hỗ trợ, bởi vì nó dẫn nhập rất tốt và làm vang dội lại Phụng vụ, bằng cách giúp cho dân chúng tham gia trọn vẹn và có chiều sâu, và thu nhận hoa quả của nó trong đời sống hằng ngày.

Cũng có thể có một vài người e ngại rằng Kinh mân côi một cách nào đó không có tính đại kết bởi vì tính chất quy hướng rõ ràng về Đức Maria của nó. Vâng Kinh mân côi rõ ràng là một sùng kính dâng lên Mẹ Thiên Chúa mà Công đồng đã mô tả: một sự sùng kính hướng về trung tâm Kitô của đức tin Kitô giáo, đến độ khi Mẹ được tôn vinh, người Con được hiểu biết đúng đắn, yêu mến và tôn vinh.[8] Nếu được khám phá lại cách đúng đắn, Kinh mân côi là một phương tiện trợ giúp và chắc chắn không cản trở việc đại kết !

Một lối chiêm ngưỡng

5. Nhưng lý do quan trọng nhất để mạnh mẽ khuyến khích việc thực hành Kinh mân côi là vì nó là một phương tiện hữu hiệu nhất để cổ võ các tín hữu dấn thân chiêm ngưỡng mầu nhiệm Kitô giáo mà tôi đã đề nghi trong Tông Thư Novo Millennio Ineunte như một sư phạm dạy đường nên thánh đích thực: Điều cần đến là một đời sống Kitô hữu lỗi lạc hơn cả về nghệ thuật cầu nguyện.[9] Bởi vì nền văn hoá hiện tại, dù giữa nhiều dấu chỉ mâu thuẫn, đã chứng kiến sự nở rộ của một lời mời gọi mới mẻ sống chiều kích thiêng liêng, cũng là do ảnh hưởng của các tôn giáo khác, thì càng khẩn cấp hơn bao giờ hết các cộng đoàn Kitô giáo phải trở thành những trường học đích thực của việc cầu nguyện.[10]

Kinh mân côi thuộc về truyền thống tốt đẹp và đáng ca ngợi nhất của chiêm ngưỡng Kitô giáo. Được phát triển bên Tây phương, đó là một hình thức cầu nguyện suy tư điển hình, tương ứng cách nào đó với lời kinh của con tim hay lời kinh kêu tên Chúa Giêsu cắm rễ trong mảnh đất Kitô giáo Đông phương.

Cầu nguyện cho hoà bình và cho gia đình

6. Một số hoàn cảnh lịch sử cũng khiến cho việc phục hồi Kinh mân nên hợp thời. Trước tiên, nhu cầu nài xin Thiên Chúa ban cho ơn bình an. Kinh mân côi đã được các vị tiền nhiệm của tôi và chính tôi nhiều lần đề nghị như một lời kinh cầu cho hoà bình. Vào lúc khởi đầu một ngàn năm mới với biến cố tấn công gây kinh hãi ngày 11.9.2001, chứng kiến mỗi ngày tại nhiều miền trên thế giới những cảnh đổ máu và bạo lực, khám phá lại Kinh mân côi có nghĩa là chìm sâu vào việc chiêm ngưỡng mầu nhiệm Đức Kitô Đấng là bình an của chúng ta, bởi vì Người đã liên kết đôi bên thành một, và phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét (Ep 2,14). Vì thế, ta không thể đọc Kinh mân côi mà không cảm thấy thôi thúc dấn thân cách cụ thể để kiến tạo hoà bình, đặc biệt tại quê hương Đức Giêsu, đang bị thử thách nặng nề và đặc biệt gần gũi trong trái tim của mọi Kitô hữu.

Một nhu cầu dấn thân và cầu nguyện tương tự nảy sinh từ một vấn đề nguy kịch của thời hiện đại: gia đình, tế bào nguyên thủy của xã hội, càng ngày càng bị đe doạ bởi những sức mạnh hủy diệt, ở bình diện ý thức hệ lẫn thực hành, làm ta lo sợ cho tương lai của cơ chế nền tảng và không thể thiếu được này và, cùng với nó, cho tương lai của toàn thể xã hội. Làm sống lại Kinh mân côi trong các gia đình Kitô hữu, trong bối cảnh của một thừa tác vụ mục vụ rộng lớn hơn cho gia đình, sẽ là một trợ giúp hữu hiệu chống lại những tác động hủy hoại của cơn khủng hoảng đặc trưng này của thời đại chúng ta.

Này là Mẹ con ! (Ga 19,27)

7. Nhiều dấu chỉ cho thấy rằng cả ngày hôm nay nữa Đức Nữ Trinh muốn thể hiện qua lời kinh này mối quan tâm từ mẫu; người Mẹ mà Đấng Cứu chuộc đang hấp hối đã giao phó, qua con người của người môn đệ yêu dấu, mọi người con cái nam nữ của Giáo hội: Hỡi Bà, này là con bà ! (Ga 19,26). Chúng ta biết rõ nhiều dịp trong thế kỷ 19 và 20, Mẹ Đức Kitô đã làm cho ta cảm nhận được sự hiện diện của ngài và nghe được lời ngài, nhằm khuyến khích Dân Thiên Chúa thực hành hình thức chiêm ngưỡng này. Tôi muốn đặc biệt kể ra, dựa vào ảnh hưởng lớn lao của chúng trên đời sống các Kitô hữu và sự nhìn nhận có thẩm quyền mà chúng đã nhận được từ Giáo hội, những cuộc hiện ra tại Lộ Đức và Fatima;[11] những đền thánh này tiếp tục được vô số khách hành hương tuôn đến tìm an ủi và hi vọng.

Bước theo các chứng nhân

8. Sẽ không thể nêu tên tất cả các vị thánh đã khám phá trong Kinh mân côi một con đường đích thực để tăng trưởng trong sự thánh thiện. Tuy nhiên chúng ta cần nhắc đến thánh Louis Marie Grignion de Montfort, tác giả của một tác phẩm xuất sắc về Kinh mân côi,[12] và, gần hơn với chúng ta, Cha Pio Pietrelcina, mà tôi vừa mới có được niềm vui phong thánh. Là một vị tông đồ đích thực của Kinh mân côi, Chân phước Bartolo Longo đã có một đoàn sủng đặc biệt. Con đường nên thánh của ngài dựa trên một thần hứng được nghe thấy trong cõi thâm sâu của tâm hồn: Ai truyền bá Kinh mân côi sẽ được cứu độ ![13] Từ đó, ngài cảm thấy được mời gọi xây cất một nguyện đường dâng kính Đức Bà mân côi tại Pompei, gần những tàn tích của thành phố cổ, hầu như đã nghe lời loan báo của Đức Kitô trước khi bị chôn vùi vào năm 79 A.D. trong một lần phun của núi lửa Vesuvius, chỉ vươn dậy từ đống tro tàn hàng thế kỷ sau như một nhân chứng về ánh sáng và bóng tối của nền văn minh cổ xưa. Qua sự nghiệp và đặc biệt qua việc thực hành 15 ngày thứ Bảy, Bartolo Longo đã cổ võ các tâm hồn quy hướng về Đức Kitô và chiêm ngưỡng nhờ Kinh mân côi, và đã nhận được sự cổ võ và nâng đỡ lớn lao từ Đức Lêô XIII, vị Giáo hoàng của Kinh mân côi.

CHƯƠNG I

CHIÊM NGƯỠNG ĐỨC KITÔ cùng VỚI ĐỨC MARIA

Một dung nhan chói lọi như mặt trời

9. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông, và dung nhan Người chói lọi như mặt trời (Mt 17,2). Trình thuật tin mừng về quang cảnh Đức Kitô biến hình khiến ba Tông đồ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an ngây ngất trước vẻ đẹp của Đấng Cứu Chuộc, có thể được xem như một hình tượng của chiêm ngưỡng Kitô giáo. Nhìn ngắm dung nhan Đức Kitô để nhận ra mầu nhiệm giữa các biến cố thường nhật và các nỗi đau thương của cuộc sống nhân loại của Người, cho đến khi nhận ra vẻ huy hoàng thần thánh được biểu lộ một cách chung cuộc nơi Đấng Phục sinh ngự bên hữu Chúa Cha trong vinh quang: đó là nhiệm vụ của tất cả các môn đệ Chúa Kitô và vì thế, cũng là nhiệm vụ của mỗi người chúng ta. Khi chiêm ngưỡng dung nhan Đức Kitô, chúng ta sẵn sàng đón nhận mầu nhiệm đời sống Ba Ngôi, để có kinh nghiệm luôn mới mẻ về tình yêu của Chúa Cha và nếm thưởng niềm vui của Chúa Thánh Thần. Có thể áp dụng cho chúng ta lời sau đây của thánh tông đồ Phao-lô: Phản chiếu vinh quang của Chúa, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí (2Cr 3,18).

Đức Maria, mẫu gương chiêm ngưỡng

10. Việc chiêm ngưỡng Chúa Kitô tìm thấy nơi Đức Maria một mẫu gương vô song. Dung nhan của người Con đặc biệt thuộc về Đức Maria. Chính trong cung lòng Mẹ mà Đức Kitô được hình thành, đón nhận từ nơi Mẹ một nét giống nhau về phương diện nhân loại, điều đó gợi lên một sự gần gũi thân mật hơn về mặt thiêng liêng. Không ai đã say sưa chiêm ngưỡng dung nhan Đức Kitô một cách trung thành như Đức Maria. Đôi mắt tâm hồn của Mẹ đã hướng về Người ngay từ lúc Truyền tin, khi Mẹ cưu mang Người nhờ quyền năng Thánh Thần. Rồi trong những tháng sau đó, Mẹ bắt đều cảm nhận sự hiện diện của Người và hình dung ra diện mạo của Người. Cuối cùng, khi hạ sinh Người tại làng Bê-lem, đôi mắt Mẹ đã âu yếm nhìn ngắm dung nhan Con Mẹ, khi Mẹ lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ (Lc 2,7).

Từ đó, đôi mắt chan chứa sự tôn thờ và kinh ngạc của Mẹ không bao giờ rời xa Người. Có khi là một cái nhìn thắc mắc, như trong trình thuật đi tìm Đức Giêsu thất lạc trong Đền thờ: Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? (Lc 2,48); nhưng luôn luôn sẽ là một cái nhìn xuyên thấu, một cái nhìn có khả năng thấu hiểu tâm tư của Đức Giêsu, đến nỗi Mẹ hiểu được những tình cảm sâu kín của Người và biết trước những quyết định của Người như tại tiệc cưới Ca-na (x. Ga 2,5). Có khi lại là một cái nhìn đau buồn, đặc biệt khi Mẹ đứng dưới chân Thánh giá, nơi đó cái nhìn của Mẹ vẫn luôn là cái nhìn của một người mẹ trao ban sự sống, vì Mẹ không chỉ chia sẻ cuộc khổ nạn và cái chết của Con Mẹ, nhưng Mẹ cũng còn đón nhận người con mới được trao ban cho Mẹ qua người môn đệ yêu dấu (x. Ga 19,26-27). Sáng ngày Phục sinh, cái nhìn của Mẹ toả rạng niềm vui Phục sinh, và sau hết, vào ngày lễ Ngũ tuần, cái nhìn của Mẹ rực cháy vì được tràn đầy Thánh thần (x. Cv 1,14).

Những kỷ niệm của Đức Maria

11. Đức Maria sống mà đôi mắt chăm chú nhìn Đức Kitô, và mỗi lời của Người trở thành một kho tàng cho ngài: Mẹ hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc 2,19; x. 2,51). Những kỷ niệm về Đức Giêsu được ghi khắc trong tim Mẹ, luôn luôn đi theo Mẹ và thúc đẩy Mẹ suy gẫm về những thời gian sống bên cạnh Con Mẹ. Một cách nào đó, những kỷ niệm ấy là chuỗi kinh mân côi mà Mẹ không ngừng ngâm nga trong suốt cuộc đời trần thế.

Ngay cả bây giờ, giữa tiếng ca mừng hân hoan trên Giê-ru-sa-lem thiên quốc, các lý do để Mẹ dâng lời tạ ơn và chúc tụng vẫn không thay đổi. Chúng khiến Mẹ lấy tình mẫu tử chăm sóc cho Giáo hội lữ hành; trong Giáo hội, Mẹ tiếp tục kể lại cảm nghiệm riêng của Mẹ về Tin mừng. Đức Maria không ngừng đặt các tín hữu trước các mầu nhiệm của Con Mẹ, ước mong rằng chúng được chiêm ngưỡng, để chúng có thể giải toả mọi năng lực cứu độ của chúng. Khi suy ngắm bằng chuỗi mân côi, cộng đoàn Kitô hữu tiếp xúc với các kỷ niệm và cái nhìn chiêm ngưỡng của Đức Maria.

Kinh mân côi, một lời kinh chiêm ngưỡng

12. Kinh mân côi, chính bởi vì nó phát xuất từ kinh nghiệm riêng của Đức Maria, là một lời kinh chiêm ngưỡng sâu sắc. Không có chiều kích chiêm ngưỡng ấy, kinh mân côi sẽ như một cái xác không hồn, như Đức Giáo hoàng Phao-lô VI đã nhấn mạnh: Không có sự chiêm ngưỡng, kinh mân côi chỉ là một cái xác không hồn, và việc lần chuỗi có nguy cơ trở nên một việc nhai đi nhai lại một số công thức có tính cách máy móc, và như thế là vi phạm giáo huấn của Đức Giêsu: Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời (Mt 6,7). Tự bản chất, việc đọc kinh mân côi đòi hỏi một nhịp độ thanh thản và kéo dài, để giúp mỗi người chiêm ngưỡng các mầu nhiệm trong cuộc đời của Chúa như được nhìn thấy bằng đôi mắt của Mẹ là người đã sống hết sức gần gũi với Chúa. Bằng cách đó, sự phong phú khôn ví của các mầu nhiệm được tỏ bày.[14]

Quả là hữu ích khi dừng lại xem xét các tư tưởng thâm thuý của Đức Phao-lô VI, để làm sáng tỏ một số khía cạnh của kinh Mân côi, lời kinh này thật sự là một hình thức chiêm ngưỡng quy hướng về Chúa Kitô.

Tưởng nhớ Đức Kitô với Mẹ Maria

13. Chiêm ngưỡng của Đức Maria trước tiên là một tưởng niệm. Chúng ta cần hiểu từ này theo nghĩa Kinh Thánh của hồi tưởng (zakar): làm cho các kỳ công của Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử cứu độ nên hiện diện. Kinh Thánh là một sưu tập các biến cố cứu độ với cao điểm là chính Đức Kitô. Những biến cố này không chỉ liên hệ đến ngày hôm qua; chúng cũng là thành phần của ngày hôm nay của ơn cứu độ. Việc hiện tại hoá xảy ra trước tiên trong Phụng vụ: điều Thiên Chúa thực hiện trong các thế kỷ qua không chỉ tác động đến những chứng nhân trực tiếp của các biến cố đó; nó tiếp tục tác động đến con người của mọi thời đại với quà tặng ân sủng của nó. Trong một chừng mực nào đó, điều này cũng đúng đối với mọi tiếp cận đạo đức những biến cố đó: hồi tưởng chúng trong tinh thần đức tin và tình yêu là mở lòng cho ân sủng mà Đức Kitô đoạt được cho chúng ta bằng các mầu nhiệm sự sống, sự chết và sống lại của Người.

Do đó, trong khi phải tái khẳng định với Công đồng Va-ti-ca-nô II rằng Phụng vụ, như một thi hành chức vụ tư tế của Đức Kitô và một hành vi phụng thờ công cộng, là tột đỉnh quy hướng mọi hoạt động của Giáo hội và đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Giáo hội,[15] cũng cần nhắc lại rằng đời sống thiêng liêng không chỉ dừng lại ở việc tham dự Phụng vụ mà thôi. Người Kitô hữu được mời gọi cầu nguyện chung, nhưng cũng phải vào phòng riêng âm thầm cầu nguyện cùng Chúa Cha (x. Mt 6,6); quả thế, như lời vị Tông đồ đã dạy, họ phải cầu nguyện không ngừng (x. 1Tx 5,17).[16] Kinh mân côi, theo cách riêng của nó, là thành phần của toàn cảnh đa dạng của việc cầu nguyện không ngừng đó. Nếu Phụng vụ, như hoạt động của Đức Kitô và của Giáo hội, là một hành động cứu độ vượt trội, Kinh mân côi cũng thế, như một suy niệm với Đức Maria về Đức Kitô, là một chiêm ngưỡng đem lại ơn cứu độ. Bằng cách nhận chìm chúng ta vào các mầu nhiệm của đời sống Đấng Cứu chuộc, nó bảo đảm rằng điều Người đã làm và điều mà Phụng vụ hiện tại hoá cũng thấm nhập sâu xa và uốn nắn đời sống chúng ta.

Học hỏi Đức Kitô từ Mẹ Maria

14. Đức Kitô là vị Thầy tối cao, Đấng mặc khải và là Đấng được mặc khải. Đây không chỉ là vấn đề học hỏi điều Người đã dạy nhưng là học hỏi chính Người. Theo viễn tượng ấy, chúng ta có thể có vị thầy nào tốt hơn là Đức Maria không ? Từ quan điểm của Thiên Chúa, Thánh Linh là vị Thầy nội tâm dẫn đưa chúng ta đến sự thật toàn vẹn của Đức Kitô (x. Ga 14,26; 15,26; 16,13). Nhưng trong số các tạo vật, không ai biết rõ hơn Đức Kitô bằng Đức Maria ; không ai có thể dẫn chúng ta đến một sự hiểu biết sâu xa về mầu nhiệm của Người hơn là Mẹ của Người.

Dấu lạ đầu tiên mà Đức Kitô thực hiện – biến nước thành rượu tại tiệc cưới Ca-na – rõ ràng giới thiệu Đức Maria dưới dáng vẻ của một thầy dạy, khi ngài thúc giục các đầy tớ làm điều Đức Giêsu chỉ bảo (x. Ga 2,5). Chúng ta có thể tưởng tượng rằng ngài cũng đã làm như thế đối với các môn đệ sau khi Đức Giêsu lên trời, khi ngài hiệp cùng với họ mong chờ Chúa Thánh Thần và nâng đỡ họ trong sứ vụ đầu tiên của họ. Chiêm ngưỡng các hoạt cảnh của Kinh mân côi trong sự thông hiệp với Đức Maria là một cách thế học hỏi từ ngài để đọc Đức Kitô, để khám phá các bí ẩn của Người và hiểu sứ điệp của Người.

Trường học này của Đức Maria cũng đặc biệt hữu hiệu nếu ta biết rằng ngài dạy chúng ta bằng cách thu nhận cho chúng ta cách sung mãn những quà tặng của Chúa Thánh Thần, cho dù ngài ban tặng cho chúng ta gương mẫu không thể sánh ví được về cuộc hành trình đức tin của riêng ngài.[17] Khi chúng ta chiêm ngưỡng mỗi mầu nhiệm trong cuộc đời của Con ngài, ngài mời gọi chúng ta hành động như ngài đã làm khi truyền tin: khiêm tốn đặt ra những câu hỏi mở lòng chúng ta ra với ánh sáng, hầu kết thúc bằng sự vâng phục của đức tin: Này tôi là nữ tì của Chúa; xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói (Lc 1,38).

Được đồng hình đồng dạng với Đức Kitô cùng với Mẹ Maria

15. Linh đạo Kitô giáo được phân biệt bởi sự dấn thân của người môn đệ để trở nên đồng hình đồng dạng ngày càng hoàn hảo hơn với Thầy của mình (x. Rm 8,29; Pl 3,10.12). Việc tuôn đổ Thánh Thần trong bí tích Thánh tẩy tháp nhập người tín hữu như một cành nho vào thân nho là Đức Kitô (x. Ga 15,5) và biến họ thành chi thể của Thân mình mầu nhiệm Đức Kitô (x. 1Cr 12,12; Rm 12,5). Tuy nhiên, sự hiệp nhất khởi đầu này mời gọi ngày càng nên đồng hình đồng dạng, sự đồng dạng sẽ dần dần uốn nắn hành vi cử chỉ của người môn đệ cho phù hợp với tâm tình của Đức Kitô: Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu. (Pl 2,5). Nói như thánh Tông đồ, chúng ta được mời gọi mặc lấy Chúa Giêsu Kitô (x. Rm 13,14; Gl 3,27).

Trong cuộc hành trình thiêng liêng của Kinh mân côi, đặt nền tảng trên sự chiêm ngưỡng liên lỉ dung nhan Đức Kitô -cùng với Đức Maria-, lý tưởng rất đòi hỏi này là nên đồng hình đồng dạng với Người, được theo đuổi nhờ sự kết giao mà ta có thể diễn tả bằng từ bằng hữu. Bằng cách ấy, chúng ta có khả năng dễ dàng đi vào đời sống của Đức Kitô và có thể nói là chia sẻ những cảm xúc sâu xa của Người. Về điểm này, Chân phước Bartolo Longo đã viết: Giống như hai người bạn, nhờ gặp gỡ nhau thường xuyên, có khuynh hướng phát triển những tập quán giống nhau, cũng vậy, nhờ giao tiếp thân mật với Đức Giêsu và Đức Trinh Nữ, bằng cách suy niệm các mầu nhiệm của Kinh mân côi và bằng cách kết hiệp trong cùng một cuộc sống nhờ rước lễ, chúng ta có thể trở nên giống các Ngài, trong mức độ mà giới hạn của ta cho phép, và có thể học hỏi từ những gương mẫu tối cao đó một cuộc sống khiêm nhường, nghèo khó, ẩn dật, kiên nhẫn và hoàn hảo.[18]

Trong tiến trình nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô trong Kinh mân côi, chúng ta giao phó chính mình một cách đặc biệt cho mối quan tâm từ mẫu của Đức Trinh Nữ. Ngài vừa là Mẹ của Đức Kitô vừa là thành viên Giáo hội, quả vậy một thành viên trổi vượt và độc nhất vô nhị,[19] ngài cũng đồng thời là Mẹ của Giáo hội. Như thế, ngài tiếp tục sinh hạ những người con cho Thân thể mầu nhiệm của Con ngài. Ngài thực hiện như thế bằng lời chuyển cầu, khi khẩn cầu Thiên Chúa tuôn đổ vô hạn Thần Khí trên họ. Đức Maria là hình tượng hoàn hảo của tư cách hiền mẫu của Giáo hội.

Kinh mân côi chuyển đưa chúng ta cách huyền diệu đến bên cạnh Đức Maria khi Mẹ đang bận tâm đến sự tăng trưởng nhân bản của Đức Kitô trong ngôi nhà ở Nazareth. Điều đó giúp Mẹ có khả năng dạy dỗ chúng ta và uốn nắn chúng ta với cùng một sự chăm sóc, cho tới khi Đức Kitô được thành hình trọn vẹn trong chúng ta (x. Gl 4,19). Vai trò này của Đức Maria, hoàn toàn dựa trên vai trò của Đức Kitô và phụ thuộc cách triệt để vào đó, không làm lu mờ hay giảm bớt vai trò trung gian của Đức Kitô, trái lại còn làm sáng tỏ mãnh lực của sự trung gian ấy.[20] Đó là nguyên tắc rõ ràng đã được Công dồng Va-ti-ca-nô II diễn tả mà tôi đã kinh nghiệm hết sức mãnh liệt trong cuộc đời tôi và đã làm nên cơ sở cho khẩu hiệu giám mục của tôi: Totus Tuus.[21] Lẽ dĩ nhên khẩu hiệu được gợi hứng từ lời dạy của thánh Louis Marie Grignion de Montfort, ngài đã giải thích bằng những lời sau đây về vai trò của Đức Maria trong tiến trình đồng hình đồng dạng của chúng ta với Đức Kitô: Tất cả sự hoàn thiện của chúng ta hệ tại ở việc nên đồng hình đồng dạng, kết hiệp và hiến thánh cho Đức Giêsu Kitô. Vì thế tính cách hoàn hảo nhất của mọi việc đạo đức không nghi ngờ gì nữa là biến đổi, kết hiệp và hiến thánh chúng ta cách hoàn hảo nhất cho Đức Giêsu Kitô. Vậy, bởi vì Đức Maria là một trong các tạo vật nên đồng hình đồng dạng nhất với Đức Giêsu Kitô, hệ quả là trong số các việc đạo đức, lòng sùng kính Đức Maria, Mẹ thánh thiện của Người, là việc đạo đức có khả năng hiến thánh và làm cho một linh hồn nên đồng hình đồng dạng với Chúa hơn cả, và một linh hồn càng hiến thánh cho Mẹ sẽ càng được hiến thánh cho Đức Giêsu Kitô.[22] Không nơi nào bằng Kinh mân côi, cuộc sống của Đức Giêsu và của Đức Maria xuất hiện liên kết sâu xa như thế. Đức Maria chỉ sống trong Đức Kitô và cho Đức Kitô !

Cầu nguyện với Đức Kitô cùng với Mẹ Maria

16. Đức Giêsu đã mời gọi chúng ta hướng về Thiên Chúa với lòng tin tưởng và kiên trì để được nhậm lời: Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho (Mt 7,7). Nền tảng của sức mạnh của lời cầu nguyện này là lòng nhân lành của Chúa Cha, nhưng cũng là sự trung gian của chính Đức Kitô (x. 1Ga 2,1) và hành động của Chúa Thánh Thần Đấng khẩn cầu cho chúng ta theo như ý của Thiên Chúa (x. Rm 8,26-27). Vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải (Rm 8,26), và đồng thời chúng ta không được nhậm lời vì chúng ta xin sai (x. Gc 4,2-3).

Để hỗ trợ lời kinh mà Đức Kitô và Chúa Thánh Thần gợi lên trong lòng chúng ta, Đức Maria can thiệp bằng lời chuyển cầu từ mẫu của Mẹ. Lời cầu nguyện của Giáo hội được đỡ nâng nhờ lời cầu nguyện của Đức Maria.[23] Nếu Đức Giêsu, Đấng Trung gian duy nhất, là Con Đường cho lời cầu nguyện của chúng ta, thì Đức Maria, phản ánh tinh tuyền và trong sáng nhất của Người, tỏ cho chúng ta Con Đường. Chính từ sự cộng tác duy nhất của Đức Maria với công việc của Chúa Thánh Thần, mà các Giáo hội đã triểm khai lời kinh dâng lên Mẹ thánh thiện của Thiên Chúa, bằng cách tập trung vào con người Đức Kitô được biểu lộ qua các mầu nhiệm.[24] Tại tiệc cưới Ca-na, sách Tin mừng đã tỏ lộ rõ ràng quyền lực của lời chuyển cầu Đức Maria khi ngài báo cho Đức Giêsu biết nhu cầu của người khác: Họ hết rượu rồi (Ga 2,3).

Kinh mân côi đồng thời là suy niệm và khẩn cầu. Lời kinh khẩn nài Mẹ Thiên Chúa được đặt nền tảng trên sự tin tưởng: tin rằng lời chuyển cầu từ mẫu của Mẹ có thể giành được mọi sự từ trái tim của Con ngài. Mẹ rất quyền năng bởi ân sủng, để sử dụng lối diễn tả táo bạo nhưng cần hiểu cho đúng đắn, của Chân phước Bartolo Longo trong bài Lời Khẩn cầu Đức Bà.[25] Đó là một xác tín, phát xuất từ Tin mừng, đã tăng trưởng càng ngày càng vững chắc trong kinh nghiệm của Dân Kitô giáo. Thi sĩ thượng thặng Dante diễn tả cách tuyệt diệu qua các vần thơ được thánh Bê-na-đô hát lên: Lạy Đức Bà, Bà thật vĩ đại và đầy quyền năng, ai ước muốn có ân huệ mà không đến với ngài, thì người ấy muốn ước vọng của mình bay lên mà không có đôi cánh.[26] Trong Kinh mân côi, khi chúng ta van nài Đức Maria, đền thờ của Chúa Thánh Thần (x. Lc 1,35), ngài chuyển cầu cho chúng ta trước mặt Chúa Cha, Đấng tuôn đổ hồng ân xuống trên ngài, và trước mặt người Con sinh ra từ cung lòng ngài, bằng cách cầu nguyện với chúng ta và cho chúng ta.

Loan báo Đức Kitô cùng với Đức Maria

17. Kinh mân côi cũng là một con đường loan báo và hiểu biết ngày một hơn, trong đó mầu nhiệm của Đức Kitô được trình bày đi, trình bày lại ở nhiều mức độ khác nhau của kinh nghiệm Kitô giáo. Đó là một trình bày mang tính cầu nguyện và chiêm ngưỡng, có khả năng đào tạo người Kitô hữu theo trái tim của Đức Kitô. Khi kết hợp việc đọc Kinh mân côi với tất cả mọi yếu tố cần thiết cho một cuộc suy niệm có hiệu quả, đặc biệt trong những cuộc cử hành chung tại giáo xứ và các đền thánh, có thể đó là một cơ hội để dạy giáo lý mà các vị mục tử phải biết cách tận dụng. Cả theo cách thức ấy nữa, Đức Bà Mân côi tiếp tục công trình loan báo Đức Kitô. Lịch sử Kinh mân côi tỏ cho biết lời kinh này đã được các cha dòng Đa Minh sử dụng như thế nào vào một thời buổi khó khăn của Giáo hội do bởi sự lan rộng của lạc giáo. Ngày hôm nay chúng ta đang đối diện với những thách đố mới. Tại sao một lần nữa chúng ta không chạy đến Kinh mân côi, với cùng một đức tin như những người đã đi trước chúng ta? Kinh mân côi vẫn giữ được sức mạnh của nó và tiếp tục là một tài nguyên mục vụ có giá trị cho mọi người loan báo tin mừng tốt.


[1] Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 45.

[2] Giáo hoàng Phao-lô VI, Tông huấn Marialis Cultus (2/2/1974), 42: AAS 66 (1974), 153.

[3] X. Acta Leonis XIII, 3 (1884), 280-289.

[4] Điều đáng ghi nhận là Tông thư của ngài về Kinh mân côi Il religioso convegno (29/9/1961): AAS 53 (1961), 641-647.

[5] Kinh Truyền tin: Insegnamenti di Giovanni Paolo II, I (1978): 75-76.

[6] AAS 93 (2001), 285.

[7] Trong những năm chuẩn bị Công đồng, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII không ngừng khuyến khích cộng đoàn Kitô giáo đọc Kinh mân côi xin cho biến cố Giáo hội này được thành công: x. Thư gửi Hồng y Phụ tá (28/9/1960): AAS 52 (1960), 814-816.

[8] Hiến chế về Giáo hội Lumen Gentium, 66.

Facebook
Twitter
Email
Print
Scroll to Top