DỤ NGÔN THỢ LÀM VUỜN NHO
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN – NĂM A
(Mt 20, 1-16a)
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Vì sao dụ ngôn thợ làm vườn nho (được đóng khung trong cùng một châm ngôn: 19,30 = 20,16) lại nằm trong văn mạch này và đâu là trọng tâm của nó?
2. Trong Cựu ước, vườn nho tượng trưng cái gì?
3. Khi trả cho mỗi người cùng một đồng tiền công, trong lúc số giờ làm việc lại khác nhau, phải chăng chủ vườn nho đã lỗi đức công bằng xã hội? Ta có thể đặt ra vấn đề cứu rỗi bằng ngôn ngữ công nghiệp cá nhân tương đương với các quyền lợi đối với Thiên Chúa không?
4. Những người thợ giờ thứ nhất phản đối sự bất công hay lòng tốt của gia chủ?
5. Phải chăng có sự tương tự giữa thái độ của các người thợ này với thái độ của người anh cả trong dụ ngôn đứa con hoang đàng?
1. Ý nghĩa tổng quát của dụ ngôn thật rõ ràng, nhưng cách dụng nó lại hơi khả nghi. Vì thế có lẽ đầu tiên nên đi từ ý nghĩa tổng quát trước khi sang phần áp dụng cụ thể.
Nếu thu gọn lại trong hai vế của một so sánh, dụ ngôn có thể tóm tắt như thế này: cũng như sau một ngày lao động trong đó các người thợ đã làm việc với những số giờ rất khác nhau, ông chủ đã trả cho tất cả cùng một số tiền, vì muốn tỏ ra ông rộng rãi với một vài kẻ đồng thời không bất công với bất cứ ai, thì cũng thế, Chúa có quyền đối xử rộng rãi với những kẻ Ngài muốn mà không bao giờ lỗi đức công bằng, và chẳng ai có quyền chỉ trích chuyện ấy được. Hình như đây đúng là ý nghĩa tự nhiên nhất của dụ ngôn như nó hiện ra trong Mt. Chủ đề của dụ ngôn rõ ràng là chủ đề về lòng quảng đại của Thiên Chúa, Đấng ban cho mọi người cùng một hồng ân lạ lùng và nhưng không, gọi là ơn cứu rỗi. Tình yêu của Thiên Chúa tuôn tràn đến tất cả mọi người chẳng phân biệt ai. Điều chủ yếu là đón nhận tình yêu ấy, chứ đừng đo lường lòng tốt của Ngài theo bản thanh toán của công bằng giao hoán nhân loại.
2. Dụ ngôn này được gửi đến ai? nhắm ai? Căn cứ vào văn mạch trực tiếp đóng khung dụ ngôn, một số cho rằng nó được gởi đến các môn đồ. Số khác, dựa vào văn mạch chung của cả phần này (ch.19-23), một văn mạch rõ ràng là có tính cách tranh luận, nghĩ rằng đúng hơn dụ ngôn nhắm đến nhóm Biệt phái đang ghen tức vì thấy Chúa Giêsu quan tâm đến hạng thu thuế và tội lỗi: họ bảo Người muốn trả lời Biệt phái ràng, dù “đã vác nặng cả một ngày thường” qua việc tuân giữ Lề luật từ buổi thơ ấu, họ không được phép chỉ trích việc Thiên Chúa lấy lòng nhân lành ban cho các tội nhân, vào muộn trong nước Trời, cùng một phần thưởng như họ. Sau hết có kẻ áp dụng dụ ngôn vào mối liên hệ giữa Do thái và lương dân: nhưng người này, dù vào trễ trong nhiệm cục cứu rỗi của Đấng thiên sai, cũng sẽ thừa hưởng các lời hứa đã ban cho tuyển dân; việc họ gia nhập muộn màng không có nghĩa là họ thông phần ít hơn vào các của cải thiêng liêng Chúa Kitô mang đến. Phải chọn lối nào trong ba lối áp dụng vừa nêu?
3. Nếu lưu tâm đến ‘toàn bộ thần học Mt, ta có thể tiên thiên rằng trong ba lối áp dụng này, lối nào cũng có thể chấp nhận được. Quả vậy, mỗi lối đều đáp ứng một số bận tâm và chủ đề nòng cốt của Tin Mừng thứ nhất. Thành thử không có lý do gì để loại bỏ một trong ba, như thể nó mâu thuẫn với viễn thông của Mt. Dầu vậy, ta vẫn có thể xếp hạng chúng theo thứ tự đáng ưu tiên chấp nhận nhiều hay ít. Vì dù cả ba lối áp dụng đều dung nạp được, bộ không có một lối nào nổi bật hơn hai lối kia ư?
Câu trả lời dĩ nhiên là có, và người ta có lý để ưa lối thứ nhất hơn, là lối áp dụng dụ ngôn vào các môn đồ. Quả thế, văn mạch trực tiếp rất rõ ràng về điểm này: trong các đoạn văn đi trước và đi sau, chỉ có các môn đồ được đề cập. Và vì để trả lời cho một câu hỏi cụ thể của Phêrô mà Chúa Giêsu kể dụ ngôn này. Phải chăng Người cũng có nghĩ tới Biệt phái hoặc toàn thể Israel, được đại diện qua những kẻ “đầu hết” trở nên cuối hết”? Điều ấy có thể lắm, nhưng chẳng có gì trong bản văn xác quyết cho ta như vậy. Thành thử tốt hơn là nên lưu ý tới chính cách trần thuật của bản văn Tin Mừng và giải thích dụ ngôn dựa vào câu hỏi của Phêrô. Nhưng như thế thì nó sẽ mặc ý nghĩa nào ?
4. Phêrô xem ra có một lối suy tưởng hơi tính toán. Phải tha mấy lần (18, 18- 22)? ông đã sẵn sàng tỏ ra quảng đại và đề nghị một giới hạn rộng rãi: 7 lần. Dù thế, ông vẫn mong một câu trả lời rõ rệt. Và Chúa Giêsu đáp: người phải tha đến 77 lần, nghĩa là luôn luôn. Kỳ thực, qua cách trả lời đó, Chúa Giêsu khẳng quyết ta không thể qui định vấn đề các tương giao liên vị dựa trên một nền tảng có tính cách định lượng được.
Trong trường hợp hiện tại cũng vậy, Phêrô muốn biết những ai đã từ bỏ mọi sự để phục vụ Chúa Kitô sẽ được phần thưởng nào. Ông nghĩ cả hai vế của phương trình phải cân đối: phục vụ và hy sinh bao nhiêu, phần thưởng sẽ là bấy nhiêu. Chúa Giêsu vồn vã trả lời và đoan chắc với ông rằng các tôi tớ người sẽ được ân thưởng bội hậu. Tuy nhiên câu hỏi của Phêrô đã bị chuyển hướng và cho thấy ông có thái độ sai lầm. Nước Trời đâu phải dựa trên luật giao hoán đổi chác, lao động bao nhiêu, tiền lương bấy nhiêu! Không nên áp dụng cái có thể là thủ tục hoàn toàn chính đáng trong lãnh vực kỹ nghệ hay thương mại vào việc phục vụ Thiên Chúa. Quả vậy, trong Nước trời chẳng có vấn đề công nghiệp cá nhân được đánh giá theo giờ lao động đâu. Đây tiên vàn là vấn đề đón nhận ân sủng. Thiên Chúa không mấy nhìn đến nỗ lực của người thợ cho bằng đến lòng quảng đại bao la của Ngài, hằng muốn hiện thân cho tất cả cách sung mãn, trọn vẹn. Thành thử trong văn mạch này, văn mạch nói đến việc trả lương cho các môn đồ (câu hỏi của Phêrô), dụ ngôn đã nêu lên một trường hợp trả lương cho các người thợ trong đó lòng quảng đại thắng lướt óc tính toán hơn thua.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Về Nước Trời thì cũng in như một gia chủ “: Bây giờ ta đã quen với loại công thức này rồi. Thực vậy, Nước Trời không giống như gia chủ, nhưng giống như toàn thể câu chuyện trong đó gia chủ đóng vai trò chính.
“Sau khi đã thuận giá với thợ là một quan tiền”: Quan tiền tương đương với một phật lăng vàng và lượng trưng tiền công bình thường của một ngày làm việc thời Chúa Giêsu. Việc ghi nhận hợp đồng tiên quyết giữa chủ và thợ đây sẽ thấy là quan trọng vào cuối dụ ngôn: khi chỉ nhận một quan tiền, toán thợ đầu tiên không hề bị thiệt thòi gì cả, vì đó là tiền lương đã thỏa thuận với nhau.
“Giờ thứ ba, ông ra… “: Dù theo qui định, một ngày bắt đầu từ lúc hoàng hôn (xem “việc thánh hóa hưu nhật” bắt đầu từ chiều thứ 6), người ta vẫn chỉ tính giờ kể từ lúc mặt trời mọc. Như thế giờ thứ 3, thứ 6, thứ 9 và thứ 11 tương ứng với 9 giờ, 12 giờ trưa, 15 giờ và 17 giờ; ngày làm việc chấm dứt lúc 18 giờ.
“Tôi sẽ tính phải chăng cho các anh”: Qua câu nói đó, các người thợ sau phải hiểu rằng tiền công của họ sẽ là một phần quan tiền.
“Khởi từ cuối hết cho đến đầu hết”: Đây là một việc dị thường đối với tập tục dương thời, nhưng trình thuật cố ý kết cấu như vậy để làm cho ra vẻ thực các lời kêu trách của những người thợ chứng kiến lòng tốt lạ lùng của gia chủ đối với những kẻ lãnh đầu tiên.
“Đã vác nặng cả một ngày trường, với nắng nôi thiêu cháy”: Theo toán thợ giờ thứ nhất, họ đã bị thiệt thòi trong hai chuyện: vất vả suốt 12 giờ, trong lúc các kẻ khác chỉ làm việc có một tiếng, và hơn nữa đã phải hái nho dưới cơn gió nóng cháy trong lúc những kẻ đến sau lại được hưởng khí trời mát mẻ ban chiều. Thời hạn và điều kiện làm việc khó khăn cho họ quyền được trả lương cao hơn.
“Này bạn”: Toán thợ giờ thứ nhất đã chẳng xưng hô với gia chủ bằng tên hay tước hiệu của ông, và đây ông ta làm cho họ hổ ngươi khi bắt đầu câu trả lời của mình như thế (x.Lc 15, 31). Người ta vẫn thường dùng lối gọi này lúc nói với kẻ không biết tên; ở đây nó vừa đầy nhân hậu vừa đầy trách móc: “bồ ơi…”. Trong 3 đoạn Tân ước có lối gọi này (Mt 20,13; 22,12 ; 26, 50), kẻ mà người ta nói với là kẻ có phạm lỗi gì đó.
“Hay bạn ghen tương (Nguyễn Thế Thuấn: hay mắt bạn lườm nguýt) vì tôi tốt lành”: Câu này là kết luận thật sự của dụ ngôn, như ta sẽ thấy dưới đây, do đó phải mặc cho nó tất cả tầm quan trọng. Quả thế, thường thì câu kết luận của dụ ngôn là chìa khóa để hiểu dụ ngôn. Chữ “ghen tương”, nếu dịch cho sát sẽ là: “mắt ác cảm”, “mắt dữ tợn”, một thành ngữ cổ xưa của Kinh Thánh thường xuất hiện trong Châm ngôn và huấn ca, để diễn tả, như ở đây, cơn tức giận và ghen tương của cả con người. Nếu đặt thành ngữ “mắt dữ tợn” vào lại trong nguyên bản, thì sự tương phản giữa các hạn từ mới nổi bật, và bài học của dụ ngôn trở nên rõ ràng hơn: “Hay mắt bạn dữ lợn vì tôi tốt lành?”. Cách cư xử của gia chủ chẳng phải là hậu quả của một tính khí chướng kỳ, một bất công hữu ý, nhưng chỉ là kết quả của tâm địa tốt lành nơi ông: chính đó mới quan trọng. ông không muốn gây thiệt hại cho người này, ông chỉ muốn làm điều thiện cho người kia.
“Thế đó, những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết, và kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết “. Vài tác giả xem châm ngôn này như một phần tất yếu hay hơn nữa, như một phần chủ yếu của dụ ngôn. Nghĩ như thế tất nhiên buộc lòng phải ép lối giải thích dụ ngôn sao cho ăn khớp với câu kết luận đó. Thánh Gioan Kim Khẩu đã tỏ ra sáng suốt hơn khi tuyên bố trong bài giảng thứ 64 của ngài: “Chúa Giêsu không diễn dịch châm ngôn này từ dụ ngôn đâu. Những người đầu tiên chẳng trở thành kẻ cuối hết; trái lại tất cả đều được thưởng như nhau” (PG 58,614). Khiếu chú giải của ngài đã chỉ cho ngài giải pháp đích thực: châm ngôn không phát xuất từ dụ ngôn, nhưng đã được thêm vào do loại suy mà thôi.
Thực vậy, nếu thử liên kết câu tục ngữ với dụ ngôn mà nó được coi như là lại giải thích. Ta thấy ngay rằng câu tục ngữ không thể nào phát xuất từ dụ ngôn, và cả hai chẳng có thể đi không với nhau được. Theo châm ngôn, thì các kẻ cam kết phải thực sự nên đầu hết và những kẻ đầu hết phải trở nên rốt cùng. Thánh Gioan Kim Khẩu ghi nhận một cách chí lý là bản văn hiện thời không thỏa mãn hai yêu sách ấy. Cùng lắm và theo một nghĩa nào đó, ta có thể chấp nhận rằng các người cuối hết đã nên đầu hết vì họ là những kẻ đầu tiên được gọi đến nhận tiền lương. Nhưng việc xếp hạng này chỉ có tính cách bề ngoài. Kỳ thực, tất cả đám thợ, lãnh cùng một phần thưởng, đều ngang hàng như nhau. Đối với họ, chỉ có tiền mới đáng kể. Trẻ em có thể hưởng lợi lộc hơn khi được kêu đầu, nhưng người lớn lại xem việc trả lương trước hay sau cũng chả ăn thua. Vì thế, nếu dụ ngôn xem ra biện minh cho câu tục ngữ, thì đó chỉ là bề ngoài và theo lối chơi chữ mà thôi, chứ thực tế không phải vậy. Tục ngữ nói đến sự đảo ngược vị trí, còn dụ ngôn lại nói về việc đối xử đồng đều.
Chính bản văn giúp ta xác quyết lối giải thích vừa nêu. Các người thợ đầu tiên, khi tỏ ra ghen tương về quyền lợi đến độ căm tức, đã phàn nàn về chuyện gì? Về việc lãnh lương sau cùng ư? hay về chuyện bị đẩy lui vào hàng cuối? Chắc chắn là không! Chẳng thấy họ phàn nàn, chống đối gì điểm này. Xin nói lại điều đó không ăn thua gì với họ cả; họ chỉ cần được trả lương đầy đủ, còn trước hay sau đôi chút không quan trọng. Họ phàn nàn ở chỗ là: dù đã lao công nhiều hơn kẻ khác, họ vẫn lãnh cùng một đồng lương như những kẻ đến làm việc sau cùng.
Trước giọng phàn nàn ấy, gia chủ đã đưa ra câu trả lời duy nhất thích hợp: “Này bạn, tôi đâu xử bất công với bạn, bạn đã chẳng thuận giá một quan với tôi sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi. Còn việc cho người cuối hết này bằng bạn, tôi muốn thế. Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn về của cải tôi sao?”. Tất cả ý nghĩa của dụ ngôn đều nằm nơi câu nói ấy của ông chủ vườn nho. Thế mà trong đó chẳng có vấn đề ngôi thứ, mà chỉ là sự bình đẳng trong đồng lương. Các chữ dứt khoát thật rõ ràng: “Này bạn, tôi đâu xử bất công với bạn…Việc cho người cuối hết này bằng bạn, tôi muốn thế… Há tôi lại không được phép…. sao?”
Thành thử dụ ngôn không ăn khớp với câu châm ngôn cuối cùng. Câu này chẳng có tương quan nào khác với dụ ngôn ngoài một tương tự (loại suy) có tính cách ngôn từ về đề tài mà thôi. Đó là một câu kết luận bề ngoài. Như trong nhiều trường hợp tương tự, kết luận bề ngoài này hẳn đã được thêm vào câu chuyện, có lẽ do chính Chúa Giêsu, hoặc do chính tác giả Tin Mừng hay đo truyền khẩu bằng cách vay mượn câu nói đó ở một văn mạch khác. Dù sao, các câu kết luận bề ngoài phải được giải thích dưới ánh sáng dụ ngôn (chứ không ngược lại?), nhưng với sự tự do uyển chuyển phù hợp với một loại văn thể như thể. Vì đã được gắn vào phần cuối câu chuyện (19, 16), nên có lẽ câu kết luận đó cũng được ghi lại ở đầu (19, 30) để làm khung văn chương cho dụ ngôn và để thay thế cho câu nhập đề lịch sử.
KẾT LUẬN
Mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa thuộc bình diện ân sủng. Đó là đối tượng đích thực, là giáo huấn căn bản của dụ ngôn. Thật vậy, dụ ngôn đưa ra một mặc khải chủ yếu về Thiên Chúa và cách Ngài nhìn xem sự vật, hay như dụ ngôn người mắc nợ bất nhân (18, 23-33). Trong lúc đó, các giáo sĩ thường tính toán phần thưởng mà người ta có quyền lãnh nhận, xác định phần thưởng mà Thiên Chúa ban cho mỗi việc lành. Cách quan niệm sự vật này hoàn toàn bị dụ ngôn đạp đổ. Ta còn có thể hy vọng gì khi phần thưởng tương ứng với công nghiệp của ta? Trái lại, nếu ta chờ đợi tất cả từ lòng tốt của Thiên Chúa và không nại tí gì vào sự công bằng của Ngài, thì đó chẳng phải là niềm hy vọng của ta sao?
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Ta không thể dựa vào trình thuật này để kết luận rằng Thiên Chúa chẳng ân thưởng cho mỗi người tùy theo công việc của họ. Như thế sẽ đi ngược với Thánh Kinh. Nhưng đúng hơn phải kết luận rằng: ngay cả lúc Thiên Chúa ân thưởng mỗi người tùy theo công việc của họ, Ngài cũng chỉ làm vì lòng tốt chứ không vì bất cứ một sự công bình giao hoán nào cả. Mỗi liên hệ của ta với Thiên Chúa chẳng phải là một cái gì khả dĩ đo lường được cũng như giản lược được vào thứ ngôn ngữ công bằng. Hai cái đều là ân sủng.
2. Đó là một sự thật trước tiên có tính cách hạ con người xuống vì nó bảo với con người rằng: ngươi không phải là kẻ có thể thực sự nói tay đôi với Thiên Chúa vĩnh cửu, nhân danh quyền lợi mà ngươi đã chiếm hữu nhờ sức mạnh của riêng ngươi, không phải là kẻ có thể tính sổ với Ngài được. Vì theo sự thật đó, tất cả đều được bao phí bởi lòng nhân ái tự do của Thiên Chúa, bởi những ý định khôn dò của Ngài. Nhưng đối với chúng ta, đó cũng là một sự thật đầy an ủi phấn khích, một sự thật giải phóng ta khỏi một gách vô cùng nặng nề. Vì nếu ta đòi tính sổ với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa cũng sẽ đòi tính sổ với ta, và bấy giờ chắc chắn ta là kẻ thiệt thòi. Tốt nhất là phó mặc tất cả vào lòng nhân ái của Thiên Chúa! Vì nếu như vậy, thì dù bắt đầu phục vụ Thiên Chúa sớm hay muộn, dù khi có cảm tưởng như Giáo Hội đòi hỏi nhiều ở ta, ta vẫn có thể luôn luôn an tâm và nói: Chúa là Thiên Chúa của mọi niềm an ủi và từ bi, Chúa là Thiên Chúa thi ân và trả cho mỗi người một quan tiền mà bản thân họ không thể tự sức mình làm ra được, Chúa là Thiên Chúa ân thưởng chúng con, ngay cả lúc chúng con thực sự chỉ là những tôi tớ mọn hèn và tội nhân nghèo khó.
3. Ta không được phẫn uất nếu, ngay từ đời này, ta nhận thấy những kẻ là la coi như là những đại tội nhân (nhưng ta có được quyền phê phán giá trị thiêng liêng của họ không?) được mạnh khoẻ, thông minh hơn, giàu có hơn ta v.v… Thiên Chúa ban ơn cho những ai Ngài muốn. Ngài thích tỏ ra nhân hậu ngay cả đối với những kẻ vô ơn với Ngài.
4. Chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn toàn yêu thương, tha thứ con người, yêu thương trên hết mọi sự và như thế làm đảo lộn mọi tính toán đê tiện của con người. Ngài là Đấng yêu thương một cách sung sướng vì Ngài chẳng để ý đến các công nghiệp nhỏ bé của ta cho bằng đến tình yêu bao la của Ngài.
5. Nếu nhìn kỹ hơn thì những kẻ được ưu đãi thực sự trong dụ ngôn có lẽ là những người thợ giờ thứ nhất. Dĩ nhiên, họ đã “vác nặng cả một ngày thường với nắng nôi thiêu cháy”, song chủ đã làm họ khỏi nỗi sợ thất nghiệp, khỏi mối lo về cơm bánh là những thứ hẳn từng dày vò các người khác, những kẻ mà buổi chiều mới được mướn làm công. Cũng vậy các tín hữu đã anh dũng trung thành với đức tin suốt đời là những người được ưu đãi so với những kẻ chỉ đến với Chúa vào cuối cuộc sống, những kẻ có lẽ chưa bao giờ kinh nghiệm được sự bình thản nội tâm, kinh nghiệm được niềm vui và sự an lòng vì biết mình ở trong tay Thiên Chúa.
Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt