Thông cáo của Tòa Giám mục về việc giải tội chung – Số 2/1973

Trong thông cáo ra ngày 9/3/1973, Bề trên Giáo phận xin các Cha cẩn thận khi làm phép Giải tội chung cũng như khi giải tội riêng. Nghĩa là phải lo làm và lo cho người ta chịu cách phải phép, cho thành và cho nên.

————————-

logo duc hy khue

TÒA TỔNG GIÁM MỤC HÀ NỘI

THÔNG CÁO CỦA TÒA TỔNG GIÁM MỤC HÀ NỘI

THÔNG CÁO  VỀ VIỆC GIẢI TỘI CHUNG – Số 2/1973

1. Bề trên chỉ dẫn mấy lời để giúp các Cha làm phép Giải tội chung. Xin các Cha cẩn thận khi làm phép Giải tội chung cũng như khi giải tội riêng. Nghĩa là phải lo làm và lo cho người ta chịu cách phải phép, cho thành và cho nên.

2. Trước hết xin các Cha nhắc cho giáo hữu nhớ: Chính nhẽ phải xét và giải tội cho từng người một, nhưng vì thiếu các Cha, nên phải giải tội chung, kẻo giáo hữu phải thiệt quá bởi lâu ngày không được chịu phép. Khi chịu phép Giải tội chung cũng được khỏi tội như khi chịu phép Giải tội riêng vậy. Nhưng các người có tội trọng, dù đã được khỏi tội bởi chịu phép Giải tội chung, cũng còn buộc khi đi xưng tội riêng, phải xưng các tội trọng đã được khỏi nhưng chưa xưng bao giờ, mà phải lo liệu đi xưng tội riêng khi có thể, không được để lâu quá. Các người có tội trọng, không được chủ ý tránh sự xưng tội riêng, và chỉ đợi khi có làm phép Giải tội chung mới đến chịu phép Giải tội: Làm như thế có ý lỗi luật buộc xưng tội một năm ít là một lần, và không đáng chịu phép Giải tội.

3. Thày cả giải tội phải nói rõ mình muốn giải tội cho những ai, mình không muốn giải tội cho những ai, kẻo có người nhầm mà nghĩ mình đã được chịu phép Giải tội đã được khỏi tội, thật sự người ấy không được chịu phép Giải tội, không được khỏi tội và bởi đấy lên chịu lễ cách bất xứng.

4. Không được làm phép Giải tội cho những người không muốn chịu, cũng không được làm phép Giải tội cho người không có lòng ăn năn ghét tội cùng dốc lòng chừa thật, vì đó là làm hư phép Giải tội. Vậy Thày cả phải nói rõ người chỉ làm phép Giải tội cho các người nào muốn chịu, vừa có lòng ăn năn ghét tội cùng dốc lòng chừa thật mà thôi. Vì thế người không muốn chịu phép Giải tội và người không có lòng ăn năn ghét tội cùng dốc lòng chừa thật dù có ngồi trong đám người Thày cả làm phép Giải tội cho cũng không được chịu phép Giải tội, vì Thày cả không có ý làm phép Giải tội cho các người ấy, và các người ấy không được chịu lễ khi đang mang tội trọng trong linh hồn.

5. Sự xét cho biết mình có lòng ăn năn ghét tội cùng dốc lòng chừa thật hay không nhiều khi khó xét lắm, và người ta dễ sai nhầm trong việc này. Vậy khi ai đoán mình không có lòng ăn năn ghét tội cùng dốc lòng chừa thật, thì đừng muốn chịu phép Giải tội vì muốn như thế là muốn sự làm hư phép Giải tội. Còn những ai hồ nghi không biết mình có lòng ăn năn ghét tội cùng dốc lòng chừa thật hay không, thì cứ giục lòng ăn năn ghét tội cùng dốc lòng chừa thêm lên và được muốn chịu phép Giải tội với điều kiện này, là nếu tôi có lòng ăn năn ghét tội cùng dốc lòng chừa thật, thì tôi muốn chịu phép Giải tội, nếu tôi không đáng chịu phép Giải tội, thì tôi không muốn chịu, làm như thế thì may ra được chịu phép Giải tội được khỏi tội, nhưng đừng lên chịu lễ.

6. Người chịu phép Giải tội phải ở gần Thày cả giải tội, không được ở quá xa 20 bước. Nhưng khi giải tội cho một đám đông ngồi hay đứng liền nhau, thì người ở xa nhất có thể 30 hay 50 bước, và cũng được chịu phép Giải tội. Vậy Thầy cả phải họp người ta lại trong một phòng, hay là trong một gian, hay mấy gian nhà thờ, mà làm phép Giải tội chung cho người ta theo nguyên tắc đã nói trên. Trong nhà thờ nhỏ cũng có thể làm phép Giải tội chung cho cả nhà thờ nhưng hãy bảo người ta quỳ liền với nhau trước mặt mình cho chắc việc. Trong nhà thờ lớn, phải phân ra nhiều toán, và làm phép Giải tội cho từng toán một; cần phải chỉ rõ mình muốn giải tội cho những ai, ví dụ: Tôi không muốn giải tội cho những người ở nhà mặc áo hay là những người ở đàng sau tôi.      

7. Không được làm phép Giải tội chung cho những người mắc ngăn trở, hay là đang bị giam phạt. Ví dụ: Những người rối vợ chồng, những người bị Bề trên cam chịu các phép v.v…Phải xét riêng những người ấy xem có lẽ gì đáng giải tội chăng. Khi giáo hữu thấy ai thuộc loại người nói trên muốn chịu phép chung và lên chịu lễ, thì phải can gián khuyên người ta đến xin Thày cả xét riêng việc mình.

8. Không nên làm phép Giải tội chung cho các em bé xưng tội chịu lễ lần đầu. Phải giải tội riêng cho các em và khuyên dạy cẩn thận để các em có thói quen tốt.

9. Khi sắp làm phép Giải tội, Thày cả phải nói mấy lời, giúp các giáo hữu giục lòng ăn năn ghét tội cùng dốc lòng chừa thật. Cùng với nhau đọc kinh Cáo mình và kinh ăn năn tội. Chỉ việc đền tội ví dụ: 5 kinh Lạy Cha, Kính mừng, Sáng danh. Đoạn làm phép Giải tội chung và cùng với nhau đọc kinh đền tội đã chỉ.

10. Các Cha nên viết vào tờ riêng những điều phải nói, muốn nói khi toan làm phép Giải tội chung và cầm tờ giấy mà đọc cho khỏi nhầm, khỏi quên. Ví dụ những điều sau này:

Tôi làm phép Giải tội chung cho các người ở trước mặt tôi trong phòng này, trong nhà thờ (hay là những người tôi đã chọn hay đã chỉ định thôi). Tôi chỉ muốn giải tội cho những người muốn chịu phép Giải tội lại có lòng ăn năn ghét tội cùng dốc lòng chừa thôi, tôi không giải tội cho những người không muốn chịu phép Giải tội, cho những người không có lòng ăn năn ghét tội cùng dốc lòng chừa thật, tôi không giải tội cho những người mắc ngăn trở, hay là bị giam phạt không được chịu phép Giải tội. Những ai mắc tội trọng đã được khỏi bởi phép Giải tội chung còn buộc phải xưng các tội riêng với Thày cả và buộc phải thu xếp làm việc ấy khi có thể, không được để quá năm.

11. Xin các Cha năng giảng dạy cho các giáo hữu hiểu và nhớ những điều đã nói trên và thực hành đúng, kẻo làm hư phép Giải lội và chịu lễ cách bất xứng. Cũng nên thỉnh thoảng đọc lại thông cáo này cho các giáo hữu nghe.

Trong thành phố Đức Mẹ, ngày 9 tháng 3 năm 1973.

T.L. Đức Tổng Giám mục

Lm. Giuse Trần Văn Mai

Các Bài Liên Quan

LƯỢC SỬ VỀ TỔNG GIÁO PHẬN HÀ NỘI

THỜI CÁC VỊ THỪA SAI

CÁC ĐỨC GIÁM MỤC

Về tấm bia chữ Hán trên mộ Đức cha François Pallu

François Pallu: Vị thừa sai nhiệt thành thánh thiện

Đức cha Jacques De Bourges – Giám mục Đại diện Tông tòa đầu tiên của Địa phận Tây Đàng Ngoài

Đức cha Edme Bélot – Vị Giám mục Đại diện Tông Toà thứ hai của Địa phận Tây Đàng Ngoài

Công cuộc truyền giáo của hai Giám mục tiên khởi tại Giáo hội Việt Nam

Vị Tôi Tớ Chúa, Đức cha Pierre Lambert de La Motte, những thành quả truyền giáo và tiến trình xin phong thánh

CÁC TƯ LIỆU KHÁC

Thông Báo

Thông báo về việc thành lập Địa phận Nam đàng ngoài năm 1846

Thông báo năm 1887: Đặt cố chính Đông làm Vítvồ

Thông báo năm 1892: Về sự nhận việc coi sóc Địa phận

Rao sắc đặt Đức Cha phó và lập địa phận Xứ Đoài (Hưng Hoá)

Thông báo năm 1895: Về sự chia địa phận Đoài          

Thông báo năm 1902: Về việc lập địa phận xứ Thanh

Thông báo rao sắc đặt Đức cha phó Kính

Thông báo về Đức Cha phó Kính qua đời

Thông báo về việc xây dựng nhà thờ Kẻ Sở

Thông báo về sự làm tràng Lý đoán và nhà nguyện lại

Thông báo về những kẻ đã giúp nhà tràng Lý đoán

Thư Chung

Thư chung về tháng Mân Côi của Đức cha Phaolô Phước năm 1885

Thư chung về việc xây dựng nhà tràng Hoàng Nguyên

Thư chung về những kẻ đã giúp nhà tràng Hoàng Nguyên

Thư chung về tháng Đức Bà của Đức cha Phaolô Phước năm 1870

Thư chung về việc lập hội giúp việc giảng đạo năm 1924

————————————

ĐỨC HỒNG Y GIUSE MARIA TRỊNH NHƯ KHUÊ

Các Thư Chung

Thư Chung Số 1

Thư Chung Số 2

Thư Chung Số 3

Thư Chung Số 4

Thư Chung Số 5

Thư Chung Số 6

Thư Chung Số 7

Thư Chung Số 8

Thư Chung Số 9

Thư Chung Số 10

Thư Chung Số 11

Các Thông Cáo Khác

Cuộc gặp thần kỳ của hai mẹ con Đức cố Hồng y Giuse Maria Trịnh Văn Căn

Tiếng Chuông Công đồng Vaticano II và những “bà già” Việt Nam

Tư tưởng của Đức Cha Giuse Maria Trịnh Văn Căn: Trẻ em là những sứ giả rao giảng Phúc Âm

60 năm ngày Thành phố Hà Nội được dâng cho Đức Mẹ

Thông cáo về cách dự Thánh Lễ và hát lễ trong nhà thờ

Thông cáo về việc giữ đạo – 15/2/1955

Thông cáo về việc tôn sùng và dâng mình cho Trái Tim Mẹ – 15/8/1958

Thông cáo chúc mừng Giáng Sinh – 12/12/1958

Thông cáo về năm Đức Mẹ Hà Nội – năm 1959

Thông cáo mừng các lễ kính nhớ sự thương khó Đức Mẹ – năm 1959

Thông cáo kỷ niệm 300 năm Tòa Thánh cử hai Giám mục đầu tiên sang Việt Nam – năm 1959

Thông cáo về tháng Năm, tháng Đức Mẹ, tháng Gia Đình – năm 1959

Thông cáo về Kinh Gia Đình cũng là Kinh Thánh Gia – 10/4/1959

Thông cáo về việc cấm phòng – 10/6/1959

Thông cáo của tòa Giám mục về mấy lễ quan trọng – 15/6/1959

Thông cáo của Tòa Giám mục về việc các xứ dâng mình cho Trái Tim Mẹ – Ngày 02/7/1959

Thông cáo – Kinh Dòng Mến Thánh Giá dâng dòng cho Trái Tim Mẹ – 02/7/1959

Thông cáo về việc tôn sùng Đức Mẹ Hà Nội – Ngày 08/8/1959

Thông cáo của Tòa Giám Mục về việc lần hạt Mân Côi và việc học kinh bổn

Thông cáo của Tòa Giám Mục về gia đình và việc học kinh bổn

Thông cáo của Tòa Giám Mục về việc cám ơn Chúa – Ngày 16/7/1960

Thông cáo của Tòa Tổng Giám Mục về việc thành lập hàng giáo phẩm – Ngày 13-1-1961

Thông cáo của Tòa Tổng Giám mục về công đồng chung số 18/1962

Thông cáo của tòa Tổng Giám mục về việc cho bệnh nhân chịu của ăn đàng số 17/1963

Thông cáo của Tòa Giám mục về việc dạy kinh bổn – Số 20/1963

Thông cáo của Tòa Giám Mục về Đức Gioan XXIII qua đời – Ngày 03/6/1963

Thông cáo của Tòa Giám mục về Lịch năm 1968 – Số 5/1967

Thông cáo của Tòa Giám mục về việc giải tội chung – Số 2/1973

Thông cáo của hàng Giáo phẩm Việt Nam về việc tôn kính tổ tiên và anh hùng liệt sĩ – số 3/1975

Bức thư nhỏ gửi các linh mục và các giáo hữu địa phận Hà Nội – Ngày 11-2-1966

ĐỨC HỒNG Y GIUSE MARIA TRỊNH VĂN CĂN

Thông báo

Thông cáo của Tòa Giám mục về việc giải tội chung – Số 2/1973

Thông cáo của hàng Giáo phẩm Việt Nam về việc tôn kính tổ tiên và anh hùng liệt sĩ – số 3/1975

Cuộc gặp thần kỳ của hai mẹ con Đức cố Hồng y Giuse Maria Trịnh Văn Căn

Tiếng Chuông Công đồng Vaticano II và những “bà già” Việt Nam

Tư tưởng của Đức Cha Giuse Maria Trịnh Văn Căn: Trẻ em là những sứ giả rao giảng Phúc Âm

Thư gửi các Cha và anh chị em giáo hữu Địa phận Hà Nội – Ngày 14/4/1980

Những chỉ dẫn Phụng Vụ

Mấy chỉ dẫn về nghi lễ – Ngày 21/8/1980

Mấy chỉ dẫn về Phụng vụ – Ngày 24/11/1980

Mấy chỉ dẫn về lễ nghi Phụng vụ Lời Chúa – Năm 1981

Mấy chỉ dẫn về các lễ trọng trong tháng 8 và tháng 9 năm 1983

Scroll to Top