Thư chung số 2 của Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Như Khuê ngày 08/09/1950

THƯ CHUNG SỐ 2

Ngày 08/09/1950

Giuse Maria Trịnh như Khuê, Giám mục, gửi nhời thân ái chào các Cha, các Thày, các Dòng, nam nữ, và các giáo hữu Địa phận Hà Nội.

Tôi phải mở đầu bức thư này bằng những nhời cám ơn nhiệt liệt. Tạ ơn Chúa Ba Ngôi và Đức Mẹ đã ban cho chúng ta những ngày lễ đặc biệt trong tháng tám vừa qua: lễ tấn phong, cuộc rước Đức Mẹ Fatima, lễ dâng địa phận cho Trái tim vô nhiễm nguyên tội Đức Mẹ. Cảm ơn các Đấng bậc và các giáo hữu đã đáp lại lời kêu gọi của tôi một cách sốt sáng, đã cầu nguyện, đã dâng tiến, đã tới dự đông đúc các cuộc lễ. Tôi tin rằng: những nhời nguyện cầu dâng lên Đức Nữ Vương Hòa bình của Hàng giáo sĩ, của giáo dân, và của các giới ngoài công giáo tham dự những cuộc lễ vĩ đại đó sẽ giúp đem lại cho Địa phận những ngày tươi sáng. Những giờ phút tốt đẹp đã qua; nhưng ơn thánh Chúa mà chúng ta lĩnh bởi tay Đức Mẹ phải tồn tại lâu bền trong tâm hồn để sống một đời sống thánh thiện và tin tưởng.

Và bây giờ tôi bắt tay vào việc… Đừng kể sự cổ võ tôn sùng Trái tim vô nhiễm nguyên tội Đức Mẹ và dự thảo chương trình xây dựng ngôi thánh đường đã khấn hứa, một công việc khẩn cấp mà tôi đã tìm thấy ngay trong khẩu hiệu của tôi: “Sequere me — Hãy theo Cha” Chúa Giêsu đã chuyên lo việc đào luyện tông đồ – Thi hành chương trình ấy, tôi lo đến chủng viện. Ngày lễ Sinh nhật Đức Mẹ (8-9-50), tôi đã lập một Hội trợ cấp chủng viện gọi là: “Hội Đức Trinh nữ Mẹ Chúa Trời” (Xin xem điều lệ Hội đính sau đây). Tôi mong các Cha và các giáo hữu hưởng ứng nhập Hội.

Nhưng các sinh viên không ở mãi trong chủng viện, lúc thành đạt rồi phải lăn lộn vào công cuộc tông đồ, khó khăn và nguy hiểm không phải là không có, các sinh viên ấy, các linh mục ấy phải được nâng đỡ nhất là về phương diện thiêng liêng.

Vì thế, ngày 15 tháng chín này tức là kính Bẩy sự thương khó Đức Mẹ, tôi sẽ hát lễ trọng khánh thành một nhà cấm phòng cho các Cha. Nhà đó tuy nhỏ bé nhưng có thể lớn về ơn ích thánh thiện. Cấm phòng hàng năm chưa đủ, phải cấm phòng mỗi tháng để tu bổ tâm thần, múc lấy nhiều ơn Chúa ngõ hầu chuyển đạt cho giáo dân. Hãy bắt chước CHÚA GIÊSU năng tìm nơi yên lặng để suy ngắm cầu nguyện… Nhà cấm phòng tôi dọn cho các Cha chỉ có thể dung nạp được một số ít người; nhưng các Cha thay đổi nhau đến cấm phòng riêng thì rất tiện. Tôi mong rằng các Cha qua lại Hà Nội sẽ không quản ngại vào Nhà đó để nói chuyện thân mật với Chúa. Riêng các Cha gần Hà Nội, nếu không tìm được nhà khác tiện hơn, thì có thể mỗi tháng đến cấm phòng tại đó; còn các Cha ở xa không thể đến được thì nên tự liệu cho mình có nơi tĩnh mịch để cấm phòng. Tôi tin rằng nếu các Cha chuyên chăm cấm phòng, cấm phòng năm, cấm phòng tháng thì các linh hồn được nhờ rất nhiều. Linh mục là người ban phát ơn thánh Chúa, vậy một phương pháp để chúng ta thu góp lấy những ơn Chúa là cấm phòng; có mang ơn Chúa đầy trong tay mới mong phân phát được cho giáo dân.

Như tôi vừa nói; những ngày tốt đẹp đã qua, bây giờ là lúc bắt tay vào việc dưới sự bảo trợ của Trái tim Chúa Gêsu và Đức Mẹ. Công việc hiện giờ có nhiều, không cho phép tôi xa Địa phận; nhưng tôi mới nhận được tin bên Tòa thánh báo cho biết đến tháng 11 d. l. này, Đức Giáo Hoàng sẽ tuyên bố tín điều Đức Mẹ Linh hồn và xác lên lời. Tin vui mừng ấy đã đưa tôi đến quyết định đi La-mã trong cuối tháng này. Tôi đi để dự cuộc lễ long trọng, để tạ ơn Đức Mẹ và cũng dịp chầu Đức Giáo Hoàng. Tôi sẽ đi Lộ Đức và Fatima để tiếp tục công việc của tôi là đến chính nhà Đức Mẹ mà giao phó Địa phận cho Đức Mẹ và kêu cầu Đức Mẹ cho Địa phận. Lúc về, tôi sẽ tặng các Đấng bậc và các giáo hữu một bảo vật, tôi có ý nói đến dự định của tôi là đem một tượng Đức Mẹ Fatima làm phép ở Fatima về với tôi, ở vĩnh viễn trong Địa phận và sẽ đi thăm các xứ trong Địa phận.

Xin các Đấng bậc và các giáo hữu cầu nguyện cho tôi lên đường bình an, trở về bình an. Nói đến cầu nguvện và bình an, lòng tôi lại tưởng nhớ đến các xứ đạo đang phải nguy hiểm, đến các Cha, các giáo hữu đã phải bắt bớ, số phận không biết thế nào. Xin các Đấng bậc, các giáo hữu hợp nhất trong nhời cầu nguyện để những người “anh em thân mến ấy” được chịu khó và mau được phóng thích trở về với chúng ta.

Sau hết xin các Đấng bậc, các giáo hữu Địa phận nhận nhời cầu chúc bình an và thánh thiện của tôi.

Hà Nội, ngày 8 tháng 9 năm 1950
J. M. Trịnh Như Khuê
Giám Mục

Đính theo thư chung số 2

HỘI ĐỨC TRINH NỮ MẸ CHÚA TRỜI

Duyên cớ – Đang thời loạn lạc, nhiều học sinh chủng sinh phải trốn tránh xa nhà trường, xa cha mẹ, không ai giúp đỡ. Trước tôi muốn tìm đường trợ cấp các học sinh ấy, sau lại muốn mở lối cho các giáo hữu giúp đỡ chủng viện mãi mãi về sau, theo gương các giáo hữu bên Âu, Mỹ đã có những Hội đoàn lo giúp chủng viện như Hội Khuyến tu (Euvre des vocation) Hội thánh Phê-rô tông đồ (Euvre de Saint Pierre Apôtre), nhất là tôi đang lo toan đem tiểu chủng viện Hoàng Nguyên lên Hà Nội cho tiện bề học tập, chắc tốn phí rất nhiều, cần phải có giáo hữu giúp đỡ, nên tôi quyết định lập một hội trợ cấp cho chủng viện.

Là nô lệ của Đức Mẹ, tôi phải làm mọi việc dưới sự điều khiển của Đức Mẹ, tôi lại mong ước Hội được Đức Mẹ phù hộ cách riêng nên tôi muốn đặt cho Hội một tên mới, qui hướng về Đức Mẹ. Đang còn suy nghĩ, chợt đến trong trí khôn tôi một danh hiệu rất đẹp, một quyền chức rất cao của Đức Mẹ “Mẹ Chúa Trời” tức là danh hiệu rất đẹp, quyền chức rất cao tôi mơ tưởng khi ấy – Càng suy càng thấy tên ấy xứng hợp. Cũng như Đức Mẹ đã cung cấp cho Đức Chúa Lời Ba Ngôi một chút vật chất là máu thanh sạch Người, để làm thành thân xác cho Đức Chúa Con, và vì thế đã nên Mẹ thật Chúa Trời, cũng vậy các giáo hữu cung cấp một chút vật chất là tiền của để tham gia vào công cuộc đào tạo giáo sĩ, cũng trở nên những ân nhân, những cha mẹ đỡ đầu của những vị kế nghiệp Chúa Giêsu.

Lấy danh hiệu Đức Mẹ đặt tên cho Hội, điều ấy hẳn bằng lòng Đức Mẹ. Nhưng muốn làm con ngoan của Đức Mẹ chúng ta không được lấy đó làm đủ. Tôi muốn cho Hội lo kính Đức Mẹ trước khi lo giúp người trần. Mà ơn cực trọng Chúa đã ban cho Đức Mẹ vừa trinh khiết vừa làm Mẹ, và là Mẹ Chúa Trời, là một ơn quí hóa độc nhất nhân loại hợp nhau ca tụng muôn đời không đủ, trái lại, ít người để ý đến sự kính mến ngợi khen Đức Mẹ vì ơn trọng ấy, nên tôi đã định mục đích chính của Hội này phải là kính mến ca tụng Đức Mẹ vì ơn trọng và lạ, Chúa đã ban cho Người được làm Mẹ, lại hằng trinh khiết và là Mẹ Chúa Trời.

Sau nữa tính loài người làm việc gì thường cầu ích lợi, sự ấy không trái lẽ, mà lại đáng khen khi người ta tìm cầu ích lợi thiêng liêng, tôi muốn thêm một điều nữa vào mục đích Hội, tuy kể sau cùng nhưng cũng là mục đích chính, nên theo đuổi đồng thời với hai mục đích trên: đó là ơn thánh hóa cho các hội viên. Việc ấy xem ra xứng hợp lắm. Chúng ta ngượi khen Đức Mẹ trinh khiết mà mình cứ dơ nhớp làm sao xứng đáng. Đức Mẹ trong sạch thánh thiện, Chúa mới chọn làm Mẹ Chúa Trời, chúng ta làm ân nhân, làm cha mẹ đỡ đầu của những vị kế nghiệp Đức Chúa Giêsu, nếu không trong sạch thánh thiện trước, ít ra cũng nên gắng sức cho mình được trong sạch thánh thiện sau mới phải.

Mục đích Vì thế, Hội Đức Trinh nữ Mẹ Chúa Trời, sẽ theo đuổi ba mục đích này: Kính mến, ngượi khen ơn trọng Chúa đã ban cho Đức Mẹ vừa trinh khiết vừa làm Mẹ, và làm Mẹ Chúa Trời; cộng tác vào việc tuyển trạch, đào luyện và thánh hóa các giáo sĩ; xin ơn thánh hóa cho mình.

Phương pháp – Cầu nguyện và trợ cấp:

a) Cầu nguyện: mỗi ngày đọc ba kinh Kính mừng và câu than: Nữ Vương các giáo sĩ, cầu cho chúng tôi. Nên thêm những việc khác: xưng tội, rước lễ, đi đàng Thánh giá nguyện ngắm…

b) Trợ cấp tiền theo – Thể lệ góp tiền thay đổi tùy thời do sự ấn định của Bề trên Địa phận.

Trụ sởNhà thờ chính tòa và Tòa Giám mục là trụ sở của Hội chung cho cả Địa phận — Nhà xứ và nhà thờ xứ là trụ sở hội riêng cho xứ.

Giám đốc – Bề trên Địa phận là Giám đốc chung cho Hội trong cả địa phận – Các cha chính xứ, chính phiên là giám đốc trong xứ trong phiên. Các đấng ấy có thể ủy quyền cho vị linh mục khác, lập ban trị sự giúp mình coi sóc hội, đặt những hội viên hoạt động để thu tiền và khuyến khích các hội viên khác.

Hội viên và thể lệ góp tiền hiện thời:

a) Hội viên (thường) mỗi năm góp ít là 10$

b) Ân nhân hội viên mỗi năm góp ít là 100$

c) Vĩnh viễn hội viên góp một lần hay trong thời hạn ngắn, ít là 1.000 $

d) Vĩnh viễn ân nhân hội viên góp một lần hay trong thời hạn ngắn ít là 10.000 $

Lễ quan thày – Lễ kính Đức Bà làm Mẹ Chúa Trời ngày 11 tháng 10 d.l. là lễ quan thày hội. Ngày ấy các Cha trong Địa phận sẽ làm lễ cho hội theo ý Bề trên chỉ. Vì hội giúp việc Địa phận nên Bề trên đòi các Cha thay Địa phận trả ơn Hội. Các Cha được Giáo luật miễn, không phải làm lễ này. Nếu ngày ấy cha nào ngăn trở không làm lễ theo ý Bề trên chỉ, sẽ làm ngày khác bù. Các Hội viên sẽ ra sức mừng lễ quan thày cho sốt sắng.

Ơn ích – Mỗi năm Hội có ngót 200 lễ. Vì số các Cha trong Địa phận hiện thời là ngót 200.

Hội còn được nhờ lời cầu nguyện và lễ riêng của chủng viện của các giáo sĩ đã được Hội giúp, cầu nguyện và làm lễ trả ơn Hội. Ơn này nhiều ít tùy theo sự giúp đỡ và điều đình của Hội với chủng viện và giáo sĩ hằng năm sẽ công bố ơn riêng này.

Nhưng ơn ích lớn hơn cả phải là ơn Chúa và Đức Mẹ tự trả cho Hội. Vì thế nếu Hội tan, chúng ta cũng không phải phàn nàn vì đã vào vĩnh viễn hội viên, vĩnh viễn ân nhân hội viên. Tôi ước mong Hội trường cửu. Nhưng dù sao chúng ta hãy ở rộng rãi với Chúa và không nên đặt gánh nặng quá cho người sau. Nếu sau này các Đấng có thẩm quyền quyết định thể khác về Hội, chúng ta xin vui lòng vâng nhận từ bây giờ. Các hội viên được nhờ ơn ích nhiều ít tùy sự giúp đỡ của mình, bao lâu còn ở trong hội và giữ lệ góp tiền. Vĩnh viễn hội viên được nhờ ơn ích của Hội bao lâu Hội còn. Riêng về vĩnh viễn ân nhân hội viên, khi qua đời Bề trên địa phận hoặc chính mình hoặc cử người đại diện, sẽ đi dự lễ tống táng (nếu có thể được) và làm một lễ mồ cầu cho linh hồn Hội viên quá cố ấy.

Hội họp – Các hội viên một tháng một lần, nên họp lại với nhau, để học lẽ đạo, nhất là về Đức Mẹ, để nghe khuyên dạy, để xem xét về sự giữ luật hội có cẩn thận không, để đọc kinh chung với nhau. Nếu đông người, hay xa cách hay vì có lẽ tiện khác, có thể họp nhiều nơi khác nhau dưới sự điều khiển của một Cha hay một giáo hữu Cha chính xứ đã đặt lên chủ tọa ban hội thay mặt người. Hội viên nào có dự một phiên hội tương tự của một Hội đoàn khác có thể miễn không phải dự buổi hội này.

Nhập hội – Biên tên – Nộp tiền – Ai muốn vào Hội phải xin biên vào sổ Hội: tên, tuổi, xứ sở, địa chỉ hiện thời của mình, hạng hội viên mình muốn vào. Các xứ, các phiên phải có sổ biên tên hội viên, tiền thu của hội viên và các điều khác nên biên. Nếu là vĩnh viễn hội viên, thì lại phải gửi ngay lên biên vào sổ ở Tòa Giám mục nữa. Còn các hội viên khác cuối năm sẽ trình về sổ tổng cộng.

Tiền thu được, khi tiện và khi đã thu được nhiều, cũng phải gửi lên Tòa Giám mục, không được giữ quá một nghìn. Hết năm phải gửi hết tiền đã thu.

Mong ước các cha, các giáo hữu vào Hội này thật đông, Đức Mẹ không quên ơn một ai.

Hà Nội, ngày 8 tháng 9 năm 1950

+ J.M. Trịnh Như Khuê

Giám mục

Các Bài Liên Quan

LƯỢC SỬ VỀ TỔNG GIÁO PHẬN HÀ NỘI

THỜI CÁC VỊ THỪA SAI

CÁC ĐỨC GIÁM MỤC

Về tấm bia chữ Hán trên mộ Đức cha François Pallu

François Pallu: Vị thừa sai nhiệt thành thánh thiện

Đức cha Jacques De Bourges – Giám mục Đại diện Tông tòa đầu tiên của Địa phận Tây Đàng Ngoài

Đức cha Edme Bélot – Vị Giám mục Đại diện Tông Toà thứ hai của Địa phận Tây Đàng Ngoài

Công cuộc truyền giáo của hai Giám mục tiên khởi tại Giáo hội Việt Nam

Vị Tôi Tớ Chúa, Đức cha Pierre Lambert de La Motte, những thành quả truyền giáo và tiến trình xin phong thánh

CÁC TƯ LIỆU KHÁC

Thông Báo

Thông báo về việc thành lập Địa phận Nam đàng ngoài năm 1846

Thông báo năm 1887: Đặt cố chính Đông làm Vítvồ

Thông báo năm 1892: Về sự nhận việc coi sóc Địa phận

Rao sắc đặt Đức Cha phó và lập địa phận Xứ Đoài (Hưng Hoá)

Thông báo năm 1895: Về sự chia địa phận Đoài          

Thông báo năm 1902: Về việc lập địa phận xứ Thanh

Thông báo rao sắc đặt Đức cha phó Kính

Thông báo về Đức Cha phó Kính qua đời

Thông báo về việc xây dựng nhà thờ Kẻ Sở

Thông báo về sự làm tràng Lý đoán và nhà nguyện lại

Thông báo về những kẻ đã giúp nhà tràng Lý đoán

Thư Chung

Thư chung về tháng Mân Côi của Đức cha Phaolô Phước năm 1885

Thư chung về việc xây dựng nhà tràng Hoàng Nguyên

Thư chung về những kẻ đã giúp nhà tràng Hoàng Nguyên

Thư chung về tháng Đức Bà của Đức cha Phaolô Phước năm 1870

Thư chung về việc lập hội giúp việc giảng đạo năm 1924

————————————

ĐỨC HỒNG Y GIUSE MARIA TRỊNH NHƯ KHUÊ

Các Thư Chung

Thư Chung Số 1

Thư Chung Số 2

Thư Chung Số 3

Thư Chung Số 4

Thư Chung Số 5

Thư Chung Số 6

Thư Chung Số 7

Thư Chung Số 8

Thư Chung Số 9

Thư Chung Số 10

Thư Chung Số 11

Các Thông Cáo Khác

Cuộc gặp thần kỳ của hai mẹ con Đức cố Hồng y Giuse Maria Trịnh Văn Căn

Tiếng Chuông Công đồng Vaticano II và những “bà già” Việt Nam

Tư tưởng của Đức Cha Giuse Maria Trịnh Văn Căn: Trẻ em là những sứ giả rao giảng Phúc Âm

60 năm ngày Thành phố Hà Nội được dâng cho Đức Mẹ

Thông cáo về cách dự Thánh Lễ và hát lễ trong nhà thờ

Thông cáo về việc giữ đạo – 15/2/1955

Thông cáo về việc tôn sùng và dâng mình cho Trái Tim Mẹ – 15/8/1958

Thông cáo chúc mừng Giáng Sinh – 12/12/1958

Thông cáo về năm Đức Mẹ Hà Nội – năm 1959

Thông cáo mừng các lễ kính nhớ sự thương khó Đức Mẹ – năm 1959

Thông cáo kỷ niệm 300 năm Tòa Thánh cử hai Giám mục đầu tiên sang Việt Nam – năm 1959

Thông cáo về tháng Năm, tháng Đức Mẹ, tháng Gia Đình – năm 1959

Thông cáo về Kinh Gia Đình cũng là Kinh Thánh Gia – 10/4/1959

Thông cáo về việc cấm phòng – 10/6/1959

Thông cáo của tòa Giám mục về mấy lễ quan trọng – 15/6/1959

Thông cáo của Tòa Giám mục về việc các xứ dâng mình cho Trái Tim Mẹ – Ngày 02/7/1959

Thông cáo – Kinh Dòng Mến Thánh Giá dâng dòng cho Trái Tim Mẹ – 02/7/1959

Thông cáo về việc tôn sùng Đức Mẹ Hà Nội – Ngày 08/8/1959

Thông cáo của Tòa Giám Mục về việc lần hạt Mân Côi và việc học kinh bổn

Thông cáo của Tòa Giám Mục về gia đình và việc học kinh bổn

Thông cáo của Tòa Giám Mục về việc cám ơn Chúa – Ngày 16/7/1960

Thông cáo của Tòa Tổng Giám Mục về việc thành lập hàng giáo phẩm – Ngày 13-1-1961

Thông cáo của Tòa Tổng Giám mục về công đồng chung số 18/1962

Thông cáo của tòa Tổng Giám mục về việc cho bệnh nhân chịu của ăn đàng số 17/1963

Thông cáo của Tòa Giám mục về việc dạy kinh bổn – Số 20/1963

Thông cáo của Tòa Giám Mục về Đức Gioan XXIII qua đời – Ngày 03/6/1963

Thông cáo của Tòa Giám mục về Lịch năm 1968 – Số 5/1967

Thông cáo của Tòa Giám mục về việc giải tội chung – Số 2/1973

Thông cáo của hàng Giáo phẩm Việt Nam về việc tôn kính tổ tiên và anh hùng liệt sĩ – số 3/1975

Bức thư nhỏ gửi các linh mục và các giáo hữu địa phận Hà Nội – Ngày 11-2-1966

ĐỨC HỒNG Y GIUSE MARIA TRỊNH VĂN CĂN

Thông báo

Thông cáo của Tòa Giám mục về việc giải tội chung – Số 2/1973

Thông cáo của hàng Giáo phẩm Việt Nam về việc tôn kính tổ tiên và anh hùng liệt sĩ – số 3/1975

Cuộc gặp thần kỳ của hai mẹ con Đức cố Hồng y Giuse Maria Trịnh Văn Căn

Tiếng Chuông Công đồng Vaticano II và những “bà già” Việt Nam

Tư tưởng của Đức Cha Giuse Maria Trịnh Văn Căn: Trẻ em là những sứ giả rao giảng Phúc Âm

Thư gửi các Cha và anh chị em giáo hữu Địa phận Hà Nội – Ngày 14/4/1980

Những chỉ dẫn Phụng Vụ

Mấy chỉ dẫn về nghi lễ – Ngày 21/8/1980

Mấy chỉ dẫn về Phụng vụ – Ngày 24/11/1980

Mấy chỉ dẫn về lễ nghi Phụng vụ Lời Chúa – Năm 1981

Mấy chỉ dẫn về các lễ trọng trong tháng 8 và tháng 9 năm 1983

Scroll to Top